BỘ
TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
28-TC/NT
|
Hà
Nội, ngày 26 tháng 7 năm 1984
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 28-TN/NT NGÀY 26 THÁNG 7 NĂM 1984 SỬA ĐỔI
VÀ BỔ SUNG THÔNG TƯ SỐ 25-TC/NT NGÀY 5 THÁNG 12 NĂM 1980 VỀ VIỆC THU VÀ SỬ DỤNG
10% PHÍ PHỤC VỤ ĐỐI VỚI NGÀNH DU LỊCH
Thi hành Công văn số 2815/V7
ngày 2-7-1980 của Thủ tướng Chính phủ về việc thu phí phục vụ của khách nước
ngoài. Bộ Tài chính đã có Thông tư số 25-TC/NT ngày 5-12-1980 hướng dẫn việc
thu và quản lý sử dụng số phí này.
Qua kết quả kiểm tra thực tế ở một
số đơn vị khách sạn Bộ Tài chính thấy việc thực hiện chế độ thu và sử dụng 10%
phí phục vụ có những điểm chưa đúng với tinh thần và nội dung chế độ đã ban
hành.
- Có những trường hợp đã thu mức
10% phí phục vụ trên giá bảo đảm kinh doanh;
- Thu chưa đúng đối tượng cho
phép. Đã thu cả những trường hợp khách hàng là các Bộ, ngành trường học, các
đơn sản xuất kinh doanh;
- Thu về các dịch vụ bán hàng
nguyên đai, nguyên kiện như rượu, bia bán cả chai, thuốc lá, kẹo nguyên gói,
hàng mỹ nghệ v.v...
Việc mở rộng diện thu 10% phí
như trên, trong nhiều trường hợp thực chất là gián tiếp lấy tiền từ Ngân sách
Nhà nước để tăng thu nhập ngoài quỹ lương và tăng phúc lợi cho cán bộ, công
nhân viên trái với chế độ chung.
Việc phân phối và sử dụng nguồn
thu 10% phí phục vụ cũng chưa hợp lý như phân phối số phí thu được không những
cho bộ phận trực tiếp phục vụ mà cả cho bộ phận quản lý gián tiếp theo một tỉ lệ
thuận với mức lương (coi như tăng mức thu nhập bình quân) nên thực tế đã làm giảm
tác dụng kích thích những cá nhân và tập thể có hoạt động trực tiếp phục vụ
khách, không thúc đẩy được công tác nâng cao chất lượng phục vụ trong ngành du
lịch, không cân đối với chế độ tiền thưởng đối với ngành sản xuất khác và trái
với tinh thần cơ bản của chủ trương thu phí phục vụ này.
Để thực hiện đúng tinh thần Công
văn số 2815-V7 của Thủ tướng Chính phủ về việc thu phí phục vụ của khách nước
ngoài đồng thời để khuyến khích ngành du lịch mở rộng hoạt động và nâng cao chất
lượng phục vụ khách tận thu phí phục vụ ở các đối tượng không thuộc nguồn kinh
phí Ngân sách Nhà nước cấp, Bộ tài chính sửa đổi, bổ sung một số điểm đã quy định
tại Điều 3 và Điều 5 của Thông tư số 25-TC/NT ngày 5-12-1980 như sau:
I. MỤC ĐÍCH
THU VÀ SỬ DỤNG 10% PHÍ PHỤC VỤ
Việc thu 10% phí phục vụ phải có
tác dụng khuyến khích cán bộ, nhân viên trong ngành du lịch làm tốt nhiệm vụ phục
vụ khách nước ngoài, làm cho khách cảm thấy được phục vụ chu đáo hơn nên đã tự
nguyện đóng góp thêm 10% phí phục vụ.
Ở những đơn vị mà số thu này sau
khi chấn chỉnh đúng chế độ mà vẫn còn dồi dào thì ngoài việc dành phần thích
đáng làm tiền thưởng trực tiếp cho những người trực tiếp phục vụ có năng suất
lao động cao, có thái độ, tác phong và kỹ thuật phục vụ tốt, còn có thể sử dụng
một phần số thu 10% phí phục vụ làm nguồn tăng thêm quỹ phúc lợi cho cán bộ
công nhân viên trong đơn vị.
II. NHỮNG ĐỐI
TƯỢNG KHÁCH VÀ NHỮNG NGHIỆP VỤ KINH DOANH DU LỊCH ĐƯỢC PHÉP THU 10% PHÍ PHỤC VỤ
1. Đối tượng khách được phép thu
10% phí phục vụ:
Trong trường hợp bảo đảm chất lượng
phục vụ tốt các nghiệp vụ nói ở điểm 2, mục II thì được phép thu ở các đối tượng:
a. Khách nước ngoài:
- Khách quốc tế đi theo đường du
lịch;
- Khách vãng lai do họ tự đài thọ
mọi chi phí (thương nhân, thuỷ thủ, chuyên gia đến công tác tại Việt Nam);
- Khách thuộc các Đại sứ quán và
các tổ chức quốc tế thường trú tại Việt Nam;
- Việt kiều trong các đoàn du lịch
do các hãng du lịch nước ngoài tổ chức vào Việt Nam
b. Khách trong nước:
- Khách du lịch nội địa;
- Khách tự trả tiền mặt;
2. Những nghiệp vụ kinh doanh du
lịch được phép thu 10% phí phục vụ (vào các đối tượng ghi ở điểm 1, mục II nói
trên):
- Thuê phòng ngủ;
- Ăn tại quầy, tại bàn;
- Uống (pha chế "cốc
tay" phục vụ tại quầy, bàn tiệc);
- Thuê xe và phương tiện vận
chuyển;
- Giặt là, may đo, cắt tóc;
- Các dịch vụ khác như đánh điện,
điện thoại, khám chữa bệnh, dạy học, dạy nghề, hướng dẫn du lịch, hướng dẫn vui
chơi giải trí.
Mỗi đơn vị khách sạn cần công bố
cho khách hàng rõ là dù đối tượng và nghiệp vụ thuộc diện được thu phí phục vụ,
nhưng do chất lượng phục vụ chưa đạt yêu cầu, thì khách có quyền không thanh
toán khoản thu phí này.
III. NHỮNG ĐỐI
TƯỢNG KHÁCH VÀ NHỮNG NGHIỆP VỤ KINH DOANH KHÔNG ĐƯỢC PHÉP THU 10% PHÍ PHỤC VỤ
1. Đối tượng khách:
a. Khách nước ngoài:
- Khách quốc tế do Đảng và Nhà
nước mời (do ngân sách Nhà nước đài thọ).
- Khách quốc tế do các cơ quan
kinh doanh sản xuất mời vào làm việc, do chính cơ quan đó đài thọ hạch toán vào
giá thành và chi phí lưu thông.
- Việt kiều về thăm tổ quốc do
Ban Việt kiều Trung ương quyết định cho về.
b. Khách trong nước:
- Các cơ quan hành chính sự nghiệp
thuộc các Bộ, ngành, uỷ ban, trường học do kinh phí ngân sách cấp;
- Các đơnvị sản xuất, kinh doanh
(hạch toán tăng thêm chi phí vào giá thành và phí lưu thông giảm tích luỹ đối với
ngân sách Nhà nước).
Tuy các đối tượng nói ở mục III
này không thuộc diện thu phí phục vụ, đơn vị kinh doanh du lịch khách sạn vẫn cần
bảo đảm chất lượng phục vụ như đối với khách có thu phí (nhất là đối với các đối
tượng khách của Đảng và Nhà nước ta mà việc tiếp đón chu đáo là một yêu cầu
chính trị).
2. Những mặt hàng bán không qua
các lao động dịch vụ, lao động kỹ thuật của người phục vụ như bán nguyên chai,
cân bánh, cân kẹo, bao thuốc lá, hàng thủ công mỹ nghệ.
IV. PHÂN PHỐI
VÀ SỬ DỤNG SỐ THU 10% PHÍ PHỤC VỤ
1. - Vì đối tượng thu phí đã được
hướng dẫn mở rộng hơn Công văn số 2815-V7 của Thủ tướng Chính phủ (tuy về tinh
thần cơ bản của mục đích thu phí vẫn giữ đúng theo công văn số 2815-V7), nay
qui định việc vận dụng phân phối và sử dụng số thu 10% phí phục vụ vào các mục
đích sau :
- Nơi mà sau khi chấn chỉnh thu
đúng đối tượng và loại nghiệp vụ, số thu vẫn còn dồi dào thì vẫn trích theo các
tỷ lệ :
+ 60% dành cho quỹ phúc lợi.
+ 30% dùng làm tiền thưởng cho
cán bộ, công nhân viên trực tiếp phục vụ.
+ 10% cho quĩ bồi thường.
- Ở nơi mà sau khi chấn chỉnh việc
thu phí, số thu bị giảm nhiều thì phải giảm tỷ lệ trích quĩ phúc lợi và tăng
tương ứng tỷ lệ dành tiền thưởng cán bộ, công nhân viên trực tiếp phục vụ để bảo
đảm thưởng thích đáng về chất lượng phục vụ cho số cán bộ công nhân viên này.
Tỷ lệ phân phối phục vụ và tình
hình phân phối sử dụng số thu về phí phục vụ cần được báo cáo công khai cho cán
bộ, công nhân viên trong đơn vị.
- Nội dung sử dụng các quĩ như
sau :
a. Được phép chi từ quĩ phúc lợi
cho những mục đích :
- Chi bữa ăn trưa, bồi dưỡng ca,
trực ban.
- Sửa chữa và xây dựng nhà cửa để
phục vụ đời sống cho cán bộ, công nhân viên.
- Phụ cấp thêm công tác phí (nói
chung công tác phí phải thống nhất theo chế độ chung, chỉ phụ cấp thêm trong
trường hợp mức phụ cấp đã bất hợp lý, việc phụ cấp thêm và mức phụ cấp thêm được
cơ quan tài chính thoả thuận.)
- Tổ chức cho cán bộ, công nhân
viên đi tham quan học tập các đơn vị du lịch bạn.
b. Được chi từ quĩ khen thưởng để
thưởng cho cán bộ, công nhân viên trực tiếp có năng suất cao, có thái độ và kỹ
thuật phục vụ tốt đối với khách.
c. 10% quĩ bồi thường được dùng
để bồi thường cho khách trong trường hợp nhân viên khách sạn sơ ý làm hư hỏng
tài sản của khách. Sau 1 năm đơn vị nào không chi hết thì phải chuyển số dư từ
quĩ bồi thường về Tổng cục Du lịch nộp vào quỹ sửa chữa và phát triển cơ sở
hành chính sự nghiệp của Tổng cục Du lịch.
d. Các cơ sở hành chính sự nghiệp
trong ngành du lịch, nếu được cấp có thẩm quyền điều vốn từ quĩ bồi thường của
các đơn vị kinh doanh du lịch sang dùng vào việc sửa chữa và phát triển cơ sở
thì cần phản ánh số vốn này trên quyết toán năm của cơ sở mình.
V. BIỆN PHÁP
THI HÀNH:
1. Đề nghị Tổng cục Du lịch hướng
dẫn cho các đơn vị kinh doanh trong toàn ngành thực hiện nghiêm chỉnh những qui
định trên và chỉ thị cho các đơn vị phản ánh trong quyết toán quí, nắm tình
hình thu và sử dụng 10% phí phục vụ theo biểu mẫu đã qui định tại Công văn số
374 - NT/NT ngày 24/10/1983 của Bộ Tài chính.
2. Đối với các đơn vị kinh doanh
du lịch cơ sở, cơ quan tài chính địa phương cần phối hợp với ngân hàng cung cấp
thường xuyên theo dõi việc thực hiện chế độ thu và sử dụng 10% phí phục vụ, tiến
hành kiểm tra định kỳ việc chấp hành chế độ thu và phân phối số thu về phí phục
vụ này.
Các khoản thu sai đối tượng
khách và thu sai mặt hàng nghiệp vụ qui định trong văn bản này, nếu phát hiện
thì truy thu nộp ngân sách Nhà nước. Nếu việc thu sai chế độ kéo dài một cách
có ý thức làm ngân sách phải tăng chi bất hợp lý thì cơ quan tài chính có trách
nhiệm quản lý và cơ quan quản lý cấp trên của đơn vị kinh doanh du lịch có quyền
đặt vấn đề với thủ trưởng đơn vị về trách nhiệm bồi hoàn cho công quĩ số tiền
thu sai đã nhỡ phân phối.
Chế độ này được thi hành kể từ
ngày ban hành và thay cho Thông tư số 25-TC/NT ngày 5/12/80 của Bộ Tài chính.