BỘ
TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
17-TC/NSĐP
|
Hà
Nội, ngày 02 tháng 4 năm 1984
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 17-TC/NSĐP NGÀY 2-4-1984 HƯỚNG DẪN CHẾ ĐỘ
THU VỀ KHUYẾN KHÍCH GIAO NỘP NÔNG SẢN
Để khuyến khích các cấp chính
quyền địa phương (tỉnh, thành phố, đặc khu, quận, huyện, xã) trong việc đẩy mạnh
sản xuất, thu mua, tập trung được nhiều sản phẩm nông, lâm, thuỷ hải sản vào
Nhà nước, tích cực giao nộp lên cấp trên, đáp ứng nguyên liệu cho chế biến, cho
nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, tại Nghị quyết số 138-HĐBT ngày
19-11-1983 về cải tiến chế độ phân cấp quản lý ngân sách cho địa phương, Hội đồng
Bộ trưởng đã quy định khoản thu về khuyến khích giao nộp nông, lâm, thuỷ hải sản
(gọi tắt là khoản thu về giao nộp nông sản).
Bộ Tài chính hướng dẫn những điểm
cụ thể chế độ thu về khuyến khích giao nộp nông sản nói trên như sau.
A- CƠ SỞ, GIÁ
CẢ ĐỂ TÍNH TOÁN SỐ THU VÀ MỨC THU
1. Tất cả các sản phẩm nông,
lâm, thuỷ hải sản và các sản phẩm do hợp tác xã, tập đoàn sản xuất và tư nhân
chế biến từ nông, lâm, thuỷ hải sản như chè sơ chế, đường mật, chượp, nước mắm,
v.v... (dưới đây gọi tắt là nông sản) bán cho Nhà nước (trừ thóc và hiện vật
giao nộp về thuế nông nghiệp, thuỷ lợi phí, công cày máy, thuốc trừ sâu, mua
công trái xây dựng Tổ quốc hoặc trả nợ Nhà nước... dù là cấp Trung ương mua trực
tiếp hoặc cấp tỉnh hay cấp quận, huyện mua và giao nộp lên cấp trên thì ngân
sách địa phương các cấp (tỉnh, thành phố, đặc khu, quận, huyện, xã) được hưởng
khoản thu về giao nộp nông sản của cấp dưới giao cho cấp trên.
Những sản phẩm nông, lâm, thuỷ hải
sản của các xí nghiệp quốc doanh, các trạm trại thuộc trung ương, tỉnh, thành
phố, đặc khu (dưới đây gọi tắt là tỉnh), quận, huyện quản lý, giao nộp cho Nhà nước
thì bất kể giao nộp cho cấp nào đều không được hưởng khoản thu về giao nộp nông
sản (vì vốn do ngân sách Nhà nước đầu tư, ngân sách các cấp đã thu quốc doanh
và lợi nhuận của các cơ sở xí nghiệp đó rồi).
2. Mức thu.
Đối với khoản thu về giao nộp
nông sản được tính theo tỷ lệ phần trăm (%) trên giá trị nông sản giao nộp cho
các xí nghiệp và tổ chức kinh tế (dưới đây gọi tắt là các xí nghiệp) từng cấp
trung ương, tỉnh, quận, huyện và có ưu tiên đối với các sản phẩm nông sản xuất
khẩu, cụ thể là:
- Nông sản giao cho các xí nghiệp
trung ương để sản xuất và tiêu dùng trong nước dù nhận ở tỉnh, quận, huyện, hay
ở xã thì mức thu là 15% trên giá trị nông sản giao nhận giữa địa phương và xí
nghiệp trung ương. Nếu là nông sản giao cho công ty ngoại thương, các tổ chức
thu mua của trung ương để xuất khẩu và các xí nghiệp trung ương chuyên trách chế
biến để xuất khẩu (các xí nghiệp này phải đăng ký với Bộ Tài chính để thông báo
cho địa phương) thì mức thu là 20% trên giá trị nông sản giao nhận giữa địa
phương này và các đơn vị này.
- Nông sản giao cho các xí nghiệp
tỉnh để sản xuất và tiêu dùng cho tỉnh dù nhận ở quận, huyện hay ở xã thì mức
thu là 10% trên giá trị nông sản giao nhận, giữa quận, huyện hoặc xã và xí nghiệp
tỉnh.
- Nông sản do xí nghiệp quận,
huyện thu mua của xã để sản xuất và tiêu dùng cho quận, huyện thì mức thu là 5%
trên giá trị nông sản giao nhận giữa xã và xí nghiệp quận, huyện.
- Nông sản giao cho các tỉnh
khác theo kế hoạch điều động phân phối của trung ương thì mức thu như giao cho
trung ương bằng 15% trên giá trị nông sản giao nhận.
3. Giá và cách tính thu:
Giá để tính khoản thu về giao nộp
nông sản là giá chỉ đạo thu mua nghĩa vụ của Nhà nước quy định cho địa phương.
Trường hợp không có giá chỉ đạo thu mua nghĩa vụ thì phải tính theo giá chỉ đạo
thu mua theo hợp đồng kinh tế hai chiều của Nhà nước quy định.
Về lương thực tính theo giá
thanh toán thóc thuế nông nghiệp với Bộ Lương thực; về thịt lợn tính theo giá
thống nhất trong cả nước là 40đ/kg thịt lợn hơi (Công văn số 41-V13 ngày
5-1-1984 của Hội đồng Bộ trưởng). Đối với các giá nông sản khác, Bộ Tài chính sẽ
cùng Uỷ ban Vật giá Nhà nước căn cứ vào giá chỉ đạo thu mua từng vùng do Uỷ ban
Vật giá Nhà nước hoặc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu đã quy định để hệ
thống lại và sẽ thông báo cho các tỉnh thống nhất thực hiện.
Khi tính khoản thu về giao nộp
nông sản phải căn cứ chủ yếu vào số lượng nông sản thực tế đã giao nhận giữa
nơi giao (tỉnh, huyện, xã) với đơn vị thu mua nhân (x) với giá chỉ đạo thu mua
để tìm ra giá trị nông sản giao nhận. Căn cứ vào tổng giá trị nông sản đã giao
nhận nhân (x) với tỷ lệ được hưởng để tính ra khoản thu về giao nộp nông sản.
Thí dụ: Một đơn vị ở tỉnh A đã
giao 5.000 kilôgam chè sơ chế các loại với giá 26,5 đ/kg và 3.000 kilôgam đậu
tương với giá 10 đ/kg. Tổng giá trị nông sản của đơn vị đó đã giao là (26,5
đ/kg x 5.000 kg) + (10 đ/kg x 3.000 kg) = 162.500 đồng.
Số thu về giao nộp nông sản cho
ngân sách địa phương sẽ là:
- Nếu giao cho xí nghiệp trung
ương, để chế biến:
162.500 đ x 15% = 24.375 đồng.
- Nếu giao cho trung ương để xuất
khẩu:
162.500 đ x 20% = 32.500 đồng.
- Nếu giao cho xí nghiệp tỉnh:
162.500 đ x 10% = 16.250 đồng.
- Nếu giao cho xí nghiệp quận,
huyện:
162.500 đ x 5% = 8.125 đồng.
4. Giao nộp vượt kế hoạch:
Để thúc đẩy địa phương quan tâm
đầy đủ đến tất cả các loại nông sản mà địa phương có nhiệm vụ giao nộp cho
trung ương, tránh tình trạng chỉ chú ý đến loại nông sản này mà coi nhẹ việc
thu mua và giao nộp các loại nông sản khác, việc giao nộp vượt kế hoạch cho
trung ương sẽ được xác định sau khi tổng kết toàn bộ các loại nông sản đã giao
nộp cho trung ương. Hết năm, Sở Tài chính tổng hợp toàn bộ số lượng các loại
nông sản đã giao nộp cho trung ương kể cả nông sản giao nộp ngoài kế hoạch,
tính ra tổng trị giá nông sản đã giao nộp đối chiếu với chỉ tiêu kế hoạch Nhà
nước; nếu vượt thì ngân sách trung ương sẽ trích thưởng cho ngân sách tỉnh bằng
10% trên phần tổng giá trị nông sản đã giao vượt kế hoạch cả năm.
Việc xét thưởng cho các huyện,
xã trong tỉnh giao nộp vượt kế hoạch do Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định.
B- ĐỐI TƯỢNG
NỘP VÀ ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC HƯỞNG KHOẢN THU VỀ GIAO NỘP NÔNG SẢN
Nghị quyết số 138-HĐBT ngày
19-11-1983 của Hội đồng Bộ trưởng đã nêu rõ "Khoản thu về giao nộp nông sản
do cơ quan thu mua trực tiếp thanh toán cho ngân sách địa phương, cơ quan tài
chính cùng cấp hoàn trả lại cho cơ quan thu mua".
Do đó:
1. Đối tượng nộp khoản thu về
giao nộp nông sản cho ngân sách địa phương là cơ quan thu mua. Cơ quan thu mua
phải là những tổ chức sản xuất kinh doanh của Nhà nước được giao trách nhiệm
thu mua để trực tiếp sản xuất chế biến, xuất khẩu hoặc để cung cấp cho nhu cầu
tiêu dùng trong nước thì mới được cơ quan tài chính cùng cấp dùng ngân sách cấp
mình cấp phát số tiền để nộp cho ngân sách cấp dưới khoản thu về giao nộp nông
sản.
Nếu cơ quan thu mua không phải
là những tổ chức sản xuất, kinh doanh của Nhà nước thì ngân sách các cấp không
được cấp chi khoản thu về giao nộp nông sản theo như quy định trên. Trường hợp
hàng hoá nông, lâm, thuỷ, hải sản trao đổi giữa các tỉnh, quận, huyện với nhau
theo hợp đồng liên kết kinh tế, thì hai bên phải thoả thuận với nhau để bảo đảm
cho ngân sách quận, huyện, xã nơi giao nông sản có khoản thu về giao nộp nông sản.
2. Đối tượng được hưởng khoản
thu về giao nộp nông sản là ngân sách địa phương (tỉnh, quận, huyện, xã) nơi
giao nộp nông sản.
Nông sản giao cho xí nghiệp
trung ương hoặc các tỉnh khác (theo chỉ tiêu điều động của Nhà nước) thì tỷ lệ
khoản thu về giao nộp nông sản là 15%, trong đó ngân sách cấp tỉnh được hưởng
5%, ngân sách quận, huyện 5% và ngân sách xã 5%. Nếu giao trung ương để xuất khẩu
thì tỷ lệ khuyến khích là 20%, trong đó ngân sách cấp tỉnh 10%, ngân sách cấp
quận, huyện 5%, ngân sách xã 5%.
Nông sản giao cho xí nghiệp tỉnh
thì tỷ lệ khoản thu về giao nộp nông sản là 10%, trong đó ngân sách quận, huyện
được hưởng 5% và ngân sách xã 5%.
Nông sản giao cho xí nghiệp quận,
huyện thì tỷ lệ khoản thu về giao nộp nông sản là 5% thu cho ngân sách xã.
3. Nguồn vốn cấp phát để cơ quan
thu mua nộp khoản thu về giao nộp nông sản cho ngân sách cấp dưới là vốn ngân
sách đồng cấp. Cơ quan thu mua thuộc cấp nào thì ngân sách cấp đó cấp phát chi
để cơ quan thu mua có tiền nộp cho ngân sách cấp dưới. Cụ thể là:
- Các xí nghiệp quốc doanh trung
ương thu mua để sản xuất chế biến, các Công ty kinh doanh ngoại thương thuộc Bộ
Ngoại thương thu mua để xuất khẩu, các Công ty cấp I thuộc Bộ Nội thương, Bộ
Lương thực, Bộ Thuỷ sản... thu mua nông sản để cung cấp tiêu dùng trong nước
thì ngân sách trung ương chi.
- Các xí nghiệp quốc doanh của tỉnh
thu mua để sản xuất chế biến, các Công ty kinh doanh hàng xuất khẩu của địa
phương, Công ty thu mua cấp II thuộc các ngành của tỉnh thu mua để cung cấp
tiêu dùng trong tỉnh thì ngân sách cấp tỉnh chi.
- Các xí nghiệp quốc doanh của
quận, huyện thu mua để sản xuất chế biến, các tổ chức kinh doanh của quận, huyện
thu mua để tiêu dùng trong quận, huyện thì ngân sách quận, huyện chi.
- Đối với nông sản do các Công
ty kinh doanh của tỉnh hoặc quận, huyện thu mua mà ngân sách cấp tỉnh hoặc ngân
sách quận, huyện đã cấp phát để nộp khoản thu về giao nộp nông sản cho ngân
sách cấp dưới, nhưng sau đó lại giao cho xí nghiệp trung ương để sản xuất chế
biến, hoặc cung cấp cho lực lượng vũ trang, công nhân viên chức và người ăn
theo thuộc đối tượng trung ương quản lý đóng trên địa bàn địa phương thì ngân
sách trung ương sẽ chi trả cho ngân sách địa phương 15% trên giá trị nông sản
giao nhận hoặc đã bán cung cấp.
- Đối với các nông sản do các
Công ty kinh doanh của quận, huyện thu mua mà đã được ngân sách quận, huyện
thanh toán khuyến khích cho ngân sách xã, sau đó Công ty quận, huyện lại giao
cho xí nghiệp tỉnh hoặc bán cung cấp cho cán bộ công nhân viên và người ăn theo
thuộc đối tượng tỉnh quản lý đóng trên địa bàn quận, huyện thì ngân sách cấp tỉnh
sẽ chi trả cho ngân sách quận, huyện 10%.
C- THỂ THỨC
THANH TOÁN KHOẢN THU VỀ GIAO NỘP NÔNG SẢN
Để bảo đảm thu nhanh, gọn, đầy đủ
khoản thu về giao nộp nông sản cho ngân sách địa phương (tỉnh, quận, huyện,
xã); đồng thời đỡ phiền phức cho cơ quan thu mua mà vẫn tăng cường được trách
nhiệm của cơ quan thu mua, Bộ Tài chính quy định thể thức cấp phát, thanh toán
và thu nộp khoản về giao nộp nông sản cho các cấp ngân sách như sau:
1. Đối với nông sản giao nộp cho
các xí nghiệp Trung ương:
Căn cứ vào kế hoạch năm và chia
ra từng quý của tỉnh, thành phố, đặc khu (do Sở Tài chính tổng hợp gửi về Bộ) về
số lượng và giá trị nông sản địa phương thu mua và giao nộp cho Trung ương, Bộ
Tài chính tạm ứng cho các Sở Tài chính một khoản kinh phí gửi vào tài khoản Vốn
uỷ quyền (795-05) tại Ngân hàng Nhà nước tỉnh (do Sở Tài chính làm chủ tài khoản)
để dùng vào việc cấp phát cho các xí nghiệp Trung ương thu mua nông sản ở địa
phương có tiền nộp khoản thu về giao nộp nông sản vào ngân sách địa phương. Tuỳ
theo từng tỉnh, thành phố và đặc khu, ở những huyện có nhiều nông sản giao nộp
cho Trung ương, Sở Tài chính có thể phân phối số vốn uỷ quyền của ngân sách
Trung ương giao cho quận, huyện, gửi tại ngân hàng Nhà nước quận, huyện (do Trưởng
phòng tài chính quận, huyện làm chủ tài khoản 795-05) để thực hiện việc cấp
phát cho các xí nghiệp Trung ương thu mua nông sản có tiền nộp vào ngân sách địa
phương.
Sau mỗi thời vụ hoặc mỗi đợt thu
mua (tuỳ theo hợp đồng giao nhận từng loại nông sản), các xí nghiệp Trung ương
khi về địa phương thu mua nông sản phải cùng chính quyền quận, huyện hoặc cơ
quan giao nộp nông sản lập biên bản giao nhận, xác nhận số lượng nông sản và số
tiền khuyến khích phải nộp về số nông sản đã giao nhận giữa bên mua và bên bán
gửi cho Sở Tài chính (hoặc Phòng tài chính quận, huyện) nơi giao bán nông sản
làm chứng từ thanh toán khoản thu về giao nộp nông sản cho ngân sách địa
phương. Biên bản này do các xí nghiệp và tổ chức kinh tế thu mua Trung ương tự
in sẵn, ghi rõ tên đơn vị xí nghiệp hoặc công ty và dấu đóng ở tiêu đề góc trái
để mỗi khi cử cán bộ về địa phương thu mua nông sản sẽ cùng cơ quan giao nộp địa
phương ký kết việc giao nhận và nộp cho Sở Tài chính (hoặc Phòng tài chính quận,
huyện) nơi giao bán nông sản 4 bản để làm thủ tục thanh toán. Sau khi thanh
toán xong, 1 bản được lưu ở Ngân hàng Nhà nước nơi thanh toán, 1 bản được trả lại
đơn vị thu mua để thay chứng từ đã nộp khoản thu về giao nộp nông sản, 1 bản
lưu ở Phòng tài chính, còn một bản Sở Tài chính kèm theo giấy báo nợ thanh toán
với Bộ Tài chính về số vốn uỷ quyền.
Sở Tài chính (hoặc Phòng tài
chính quận, huyện nếu được Sở Tài chính uỷ quyền) căn cứ vào biên bản giao nhận,
làm uỷ nhiệm chi trích từ tài khoản 795-05 vốn uỷ quyền của Ngân sách Trung
ương và khuyến khích giao nộp nông sản nộp vào ngân sách địa phương. Nội dung
ghi rõ là cấp cho đơn vị A của Trung ương để nộp về khuyến khích nông sản (kèm
theo biên bản giao nhận) gửi sang Ngân hàng Nhà nước thực hiện việc thanh toán.
Khi trích tài khoản 795-05 (vốn
uỷ quyền và khuyến khích giao nộp nông sản của Ngân sách Trung ương) chuyển cho
ngân sách địa phương Ngân hàng Nhà nước quận, huyện có trách nhiệm kiểm soát số
tiền trích, bảo đảm đúng chế độ quy định về cơ sở, giá cả, mức thu khuyến khích
và đối tượng thu, nộp như đã hướng dẫn ở điểm A và B trong Thông tư này.
Cuối mỗi tháng hoặc cuối quý, Sở
Tài chính tập trung các biên bản giao nhận nông sản của các xí nghiệp Trung
ương đã được thanh toán khoản thu về giao nộp nông sản kèm theo các giấy báo nợ
về sử dụng nguồn vốn uỷ quyền của Ngân sách Trung ương (795-05) gửi về Bộ Tài
chính để thanh toán và xin tạm ứng tiếp vốn uỷ quyền cho quý sau (nếu không làm
đủ các thủ tục thanh toán quý trước thì Bộ Tài chính tạm thời đình chỉ việc
chuyển vốn uỷ quyền cho quý sau).
2. Nông sản bán cung cấp cho lực
lượng vũ trang và công nhân viên chức Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh, thành
phố.
Đối với nông sản là lương thực,
thực phẩm bán cung cấp cho lực lượng vũ trang, công nhân viên chức Trung ương
đóng trên địa bàn tỉnh, thành phố, đặc khu thì hàng tháng Sở Tài chính căn cứ
vào số lượng lương thực và thực phẩm do ngành lương thực và nội thương đã bán
cung cấp bằng hiện vật cho lực lượng vũ trang, công nhân viên chức thuộc trung
ương quản lý, tính ra mức khuyến khích giao nộp nông sản (theo tỷ lệ 15% như
nông sản giao nộp cho Trung ương) gửi Bộ Tài chính để xét trả cho Ngân sách địa
phương. Khi xét thanh toán phải tính trừ phần lương thực và thực phẩm là nông sản
của cấp I đã điều động từ nơi khác về cho tỉnh, thành phố, đặc khu (vì số này
đã được Ngân sách trung ương thanh toán cho ngân sách địa phương nơi giao nộp rồi).
3. Đối với nông sản giao nộp cho
các xí nghiệp của tỉnh.
Nguồn vốn để cấp phát cho các xí
nghiệp và tổ chức kinh tế của tỉnh thu mua để sản xuất chế biến, xuất khẩu địa
phương hoặc cung cấp tiêu dùng trong tỉnh do ngân sách tỉnh chi, do đó Sở Tài
chính quy định cách cấp phát để cơ quan thu mua của tỉnh có tiền nộp cho ngân
sách quận, huyện (bao gồm cả phần thu cho ngân sách xã). Có thể thực hiện bằng
hai cách:
a) Vận dụng thể thức thanh toán
đối với nông sản giao nộp cho xí nghiệp trung ương; cụ thể là Sở Tài chính dùng
ngân sách cấp tỉnh tạm ứng vốn uỷ quyền cho quận, huyện để quận, huyện cấp phát
cho xí nghiệp tỉnh có tiền nộp vào ngân sách huyện. Sở Tài chính bàn với Ngân
hàng Nhà nước tỉnh và quận, huyện mở tài khoản riêng gửi tại ngân hàng Nhà nước
quận, huyện, không được để lẫn với tài khoản 795-05 (Vốn uỷ quyền của ngân sách
Trung ương).
b) Cuối mỗi tháng, phòng Tài
chính quận, huyện tập trung các biên bản do xí nghiệp, và tổ chức kinh doanh của
tỉnh đã thu mua tại quận, huyện và xã gửi về Sở Tài chính để Sở Tài chính cấp
phát chi ngân sách tỉnh chuyển cho ngân sách quận, huyện (bao gồm cả phần thu
trong ngân sách xã). 4. Thanh toán khoản thu về giao nộp nông sản cho ngân sách
xã.
Hiện nay ngân sách xã chưa hạch
toán và quản lý thống nhất trong hệ thống ngân sách Nhà nước, do đó, khi các
đơn vị thu mua của Trung ương hay tỉnh nộp khoản thu về giao nộp nông sản cho
ngân sách địa phương thì phần thu cho ngân sách xã được thu tập trung vào ngân
sách quận, huyện. Sau đó, Uỷ ban nhân dân quận, huyện (phòng Tài chính) làm thủ
tục cấp phát thanh toán cho ngân sách xã (kể cả phần nông sản mà quận, huyện
thu mua để lại sử dụng cho quận, huyện).
Cách thanh toán khoản thu về
giao nộp nông sản cho ngân sách xã như sau:
Hàng tháng Uỷ ban nhân dân xã lập
bản kê về nông sản đã giao nộp giữa xã, hợp tác xã và hộ nông dân cá thể cho
các xí nghiệp huyện, tỉnh và trung ương gửi lên Uỷ ban nhân dân quận, huyện. Uỷ
ban nhân dân quận, huyện, (Phòng tài chính) soát xét kiểm tra, loại trừ số lượng
và hiện vật về thuế nông nghiệp, thuỷ lợi phí, công cày máy, thuốc trừ sâu,
thóc mua công trái và thóc trả nợ Nhà nước trích ngân sách quận, huyện cấp chuyển
cho ngân sách từng xã khoản thu về giao nộp nông sản bằng 5% tổng giá trị nông
sản như đã quy định trên.
D- XỬ LÝ MỘT
SỐ TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ
1. Về giá tính thu.
Để thi hành thống nhất trong
toàn tỉnh giá để tính khoản thu về giao nộp nông sản cho ngân sách địa phương,
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu cần thông báo cho Uỷ ban nhân dân các
quận, huyện và các đơn vị trong tỉnh biết giá chỉ đạo thu mua đối với từng mặt
hàng nông sản đã được Nhà nước quy định cho tỉnh để Uỷ ban nhân dân các quận,
huyện và các đơn vị xí nghiệp sản xuất - kinh doanh hoạt động trên địa bàn tỉnh,
huyện thống nhất tính toán khoản thu này.
2. Về mức thu khuyến khích đối với
lương thực.
Trong tổng số lương thực thu mua
có số thóc về thuế nông nghiệp, thuỷ lợi phí, v.v... không được hưởng khoản thu
về giao nộp nông sản. Do đó, số lương thực giao nộp cho tỉnh, quận, huyện và
cho Trung ương phải trừ phần lương thực không được hưởng khoản thu và giao nộp
nông sản.
Ví dụ: Tổng số thóc huy động
theo kế hoạch cả năm của tỉnh A là 10 vạn tấn, trong đó thóc thuế nông nghiệp,
thuỷ lợi phí v.v... là 3 vạn tấn, thóc mua là 7 vạn tấn. Từ đó, xác định phần
lương thực không được hưởng khoản thu về giao nộp nông sản là 30% trong tổng số
lương thực huy động. Hệ số trừ là 30%.
Khi tính mức thu và giao nộp
nông sản đối với số lương thực giao cho các đơn vị trung ương, cho tỉnh, quận,
huyện và số lương thực bán cung cấp cho lực lượng vũ trang, công nhân viên chức
thuộc Trung ương hoặc tỉnh quản lý, đều được trừ theo tỷ lệ đã được xác định về
phần lương thực không được hưởng khoản thu về giao nộp nông sản như ví dụ nêu
trên.
Tỷ lệ trừ này, Sở Tài chính tính
toán theo kế hoạch huy động lương thực cả năm của tỉnh báo cáo cho Uỷ ban nhân
dân tỉnh và Bộ Tài chính biết và thông báo cho Uỷ ban nhân dân các quận, huyện,
các đơn vị thu mua trung ương và của tỉnh biết để thi hành thống nhất trong
toàn tỉnh. Phần quận, huyện thanh toán cho ngân sách xã thì tính theo thực tế
cho từng xã đã trừ thóc thuế nông nghiệp, thuỷ lợi phí... như nêu trên.
E- CÁC ĐIỀU
KHOẢN KHÁC
1. Để phản ánh trong ngân sách
Nhà nước khoản thu, chi về giao nộp nông sản, mục lục ngân sách Nhà nước sẽ được
bổ sung:
- Mở thêm khoản 93, loại 8 để
ghi thu "thu về giao nộp nông sản" và khoản 83, loại 10 để ghi chi
"chi trả ngân sách cấp dưới về giao nộp nông sản".
- Đối với ngân sách xã khoản thu
về giao nộp nông sản được ghi vào khoản 16, loại 2.A của mục lục ngân sách xã.
2. Tăng cường kiểm tra công tác
thu mua và giao nộp nông, lâm, thuỷ, hải sản.
Thu mua và giao nộp nông, lâm,
thuỷ, hải sản tập trung vào Nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sản
xuất và đời sống. Vì vậy, các cấp chính quyền tỉnh, huyện, xã cần tăng cường chỉ
đạo thu mua và giao nộp nông sản cấp trên, thực hiện thống nhất quản lý theo
đúng Nghị quyết số 50-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, không được bất kỳ một cơ
quan, đơn vị, tổ chức nào trực tiếp thu mua tại các hợp tác xã và hộ nông dân
mà không qua Uỷ ban nhân dân quận, huyện và Uỷ ban nhân dân xã.
Tất cả các đơn vị sản xuất kinh
doanh thuộc các ngành, các cấp được giao trách nhiệm đến địa phương thu mua
nông, lâm, thuỷ hải sản đều phải thông qua cấp quận, huyện và phải nộp khoản
thu về khuyến khích giao nộp nông sản vào ngân sách địa phương tại ngân hàng quận,
huyện nơi giao bán nông sản.
3. Thời gian thi hành.
Khoản thu về giao nộp nông sản
được thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm 1984.
Để thuận tiện cho việc thanh
toán, bảo đảm khoản thu về giao nộp nông sản cho ngân sách địa phương và không
làm xáo trộn hạch toán kế toán của xí nghiệp, nay quy định:
a) Đối với các nông sản mà địa
phương (tỉnh, quận, huyện, xã) đã giao nộp cho các xí nghiệp và đơn vị thu mua
trung ương từ ngày 1-1-1984 đến ngày ban hành Thông tư này chưa được thanh toán
khoản thu về giao nộp nông sản thì xí nghiệp và đơn vị thu mua trung ương phải
cùng địa phương nơi giao nộp nông sản lập lại biên bản giao nhận để Sở Tài
chính (hoặc Phòng tài chính quận, huyện nếu được Sở uỷ quyền) làm thủ tục thanh
toán khoản thu về giao nộp nông sản cho ngân sách địa phương như đã hướng dẫn
trên.
b) Đối với bốn mặt hàng nông sản
(thuốc lá, lợn thịt, cà phê, quế) giao nộp từ đầu năm 1984 đến nay đã được xí
nghiệp hoặc đơn vị thu mua trung ương thanh toán khoản thu về khuyến khích giao
nộp nông sản cho ngân sách địa phương, xí nghiệp cũng đã hạch toán và giá vốn
hoặc giá thành sản phẩm theo như chế độ trước đây thì nay không phải thanh toán
lại, do đó không phải lập lại biên bản về số nông sản (thuốc lá, lợn thịt, cà
phê, quế) đã có thu về khuyến khích giao nộp nông sản.
Các khoản thu về khuyến khích
giao nộp thuốc lá, thịt lợn, cà phê, quế quy định trước đây đều bãi bỏ và thi
hành thống nhất theo chế độ này.