BỘ
TÀI CHÍNH
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
16-BTC/NN
|
Hà
Nội, ngày 31 tháng 05 năm 1962
|
THÔNG TƯ
GIẢI THÍCH BIỆN PHÁP TÍNH THUẾ NÔNG NGHIỆP NĂM 1962
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
Kính gửi: Ủy ban hành chính các khu
tự trị, tỉnh và thành phố
Hội đồng Chính phủ vừa
ban hành nghị định số 63-CP ngày 26-5-1962 sửa đổi một số biện pháp tính thuế ,
thu thuế, giảm thuế nông nghiệp đối với hợp tác xã sản xuất nông nghiệp.Căn cứ
vào điều 5 của nghị định, Bộ Tài chính xin giải thích cụ thể như sau:
Trước đây, để phục vụ phong trào
hợp tác hóa, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một
số biện pháp tạm thời để tính thuế, thu thuế và miễn giảm thuế nông nghiệp,đối
với hợp tác xã sản xuất nông nghiệp (nghị định số 375-TTg ngày 15-10-1959). Biện
pháp đó là : hàng năm căn cứ vào sản lượng thường niên của ruộng đất và nhân khẩu
nông nghiệp mà tính thuế cho từng nông hộ xã viên và số thuế của hợp tác xã là
số thuế của các nông hộ xã viên cộng lại. Đối với hợp tác xã cấp cao thì hợp
tác xã nộp toàn bộ số thuế đã ghi thu của hợp tác xã, xã viên chỉ nộp số thuế
tính trên phần diện tích dành lại làm riêng mà thôi. Đối với hợp tác xã cấp thấp
thì xã viên phải nộp phần thuế của diện tích dành lại làm riêng và từ 40% đến
50% của phần ruộng đất góp vào hợp tác xã, số thuế còn lại do hợp tác xã nộp.
Biện pháp tính thuế như vậy đã có tác dụng khuyến khích nông dân vào hợp tác xã
bảo đảm sự đóng góp tương đối công bằng hợp lý trong thời kỳ đầu của phong trào
hợp tác hóa.
Đến nay phong trào hợp tác hóa
nông nghiệp ở miền Bắc đã căn bản hoàn thành,gần 90% nông dân đã vào hợp tác
xã, trong đó có khoảng gần 30% tham gia hợp tác xã cấp cao. Trên cơ sở
quan hệ sản xuất mới, ruộng đất hoàn toàn do tập thể hợp tác xã sử dụng theo kế
hoạch sản xuất của hợp tác xã,thu hoạch cũng do hợp tác xã thống nhất phân phối
theo lao động.
Ở nhiều nơi cách sử dụng ruộng đất
đã hoàn toàn khác trước như : ruộng trước kia cấy lúa, nay hợp tác xã gieo mạ,
ruộng chuyên gieo mạ nay đem giồng mầu vv…có nơi đã phá bờ cũ và hộ xã
viên không còn biết đến thửa ruộng cũ của mình nữa hoặc để được thuận tiện
trong sản xuất có hợp tác xã đã đổi chác ruộng đất cho nhau v.v…
Như vậy, về thuế nông nghiệp, nếu
tiếp tục thu theo biện pháp hiện nay, nghĩa là vẫn lấy nông hộ xã viên làm đối
tượng tính thuế thì hàng năm vẫn phải dựa vào sản lượng ruộng đất và nhân khẩu
nông nghiệp của từng nông hộ xã viên. Đó là một việc thực tế rất khó làm và rất
phiền phức.
Xuất phát từ tình hình thực tế
đó, Chính phủ quyết định từ nay coi hợp tác xã là đơn vị tính thuế, thu thuế và
miễn giảm thuế. Như vậy biện pháp tính thuế thích hợp với hoàn cảnh mới ở nông
thôn, do đó mà phát huy hơn nữa tác dụng của chính sách thuế nông nghiệp
đối với sản xuất, đồng thời củng cố và phát triển hợp tác xã.
Mặt khác, mặc dù sản xuất nông
nghiệp ngày càng phát triển và hiện nay sản lượng ruộng đất đã tăng nhiều
so với sản lượng ổn định từ năm 1958, đáng lý phải điều chỉnh lại sản lượng tính
thuế, nhưng trong năm 1962, Chính phủ chủ trương vẫn tiếp tục giữ nguyên sản lượng
đã ổn định năm 1958. Sản lượng này chỉ bằng khoảng 60% sản lượng thực tế.
Để làm đơn giản công tác thu thuế
nông nghiệp, đi đôi với việc giữ nguyên sản luợng tính thuế cũ, đối với mỗi
hợp tác xã, Chính phủ vẫn giữ nguyên mức động viên năm 1961, nghĩa là sẽ lấy
thuế suất bình quân năm 1961 để tính thuế năm 1962 cho hợp tác xã ( đối với các
hộ nông dân cá thể cũng vậy).
Ổn định mức động viên bằng năm
1961 thể hiện rõ mục đích của Đảng và Chính phủ chiếu cố đến đời sống của nhân
dân, đồng thời Nhà nước vẫn bảo đảm huy động hợp lý một phần thu nhập của nông
dân để phục vụ cho nhu cầu công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đây là một điểm
quan trọng trong nghị định số 63-CP cần được thông suốt trong cán bộ và nhân
dân.
Có thể có người nghĩ rằng: biện
pháp tính thuế mới không tính đến yếu tố tăng giảm nhân khẩu nông nghiệp nữa,
thiệt cho nông dân, cho hợp tác xã. Thực ra, năm 1958 Chính phủ tuyên bố ổn định
sản lượng trong 3 năm, đáng lẽ đến năm 1961 phải định lại sản lượng tính thuế,
tính theo sản lượng cao hơn, nhưng Chính phủ vẫn thu thuế nông nghiệp theo sản
lượng đã ổn định từ năm 1958, đồng thời giữ mức động viên năm 1961 là hợp lý.
Việc không tính yếu tố tăng giảm
nhân khẩu nông nghiệp trong năm 1962 chủ yếu là để đơn giản cách tính thuế,
tránh cho cán bộ và nhân dân đỡ mất thì giờ vào việc tính thuế. Vả lại, hiện
nay do hợp tác xã kinh doanh nhiều ngành, nhiều nghề, nên trong thực tế ở một số
hợp tác xã việc xác định ai là nhân khẩu nông nghiệp rất phức tạp và khó khăn,
vì có người trước đây chuyên làm ruộng đã được tính là nhân khẩu nông nghiệp
thì nay hợp tác xã lại điều động đi làm nghề khác như làm lò vôi, chăn
nuôi vv… hoặc trái lại có người trước đây chuyên làm nghề khác nhưng nay vào hợp
tác xã, hàng năm vẫn bảo đảm một số ngày công nhất định trong công việc sản xuất
nông nghiệp. Do đó, tính toán chi li hơn thiệt do tăng giảm nhân khẩu nông nghiệp
là không hợp tình hợp lý.
Dưới đây, Bộ xin lưu ý về một số
vấn đề cụ thể:
1. Về đơn vị
tính thuế, thu thuế và miễn giảm thuế.
Nhà nước coi hợp tác xã là đơn vị
tính thuế, thu thuế và miễn giảm thuế nông nghiệp, không lấy nông hộ xã viên
làm đơn vị tính thuế như trước đây. Ban Quản trị hợp tác xã ( cấp thấp cũng như
cấp cao) có nhiệm vụ kê khai đầy đủ diện tích, sản lượng trong toàn hợp tác xã
để tính thuế nông nghiệp. Đối với phần diện tích, sản lượng ruộng đất dành lại
cho xã viên làm riêng. Ban Quản trị cũng kê khai để tính thuế cùng với diện
tích của hợp tác xã. Như vậy số thuế ghi thu cũng như số thuế phải nộp của hợp
tác xã là gồm số thuế tính vào ruộng đất công hữu của hợp tác xã (ruộng cấy
thêm, ruộng khai hoang, phục hồi đã đến hạn chịu thuế v.v…) ruộng đất của xã
viên góp lại và phần ruộng đất để làm riêng cho hợp tác xã. Xã viên sẽ thanh
toán lại với hợp tác xã về số thuế tính vào ruộng đất làm riêng. Đối với hợp
tác xã cấp thấp, hợp tác xã cũng trực tiếp nộp toàn bộ số thuế của hợp tác xã
cho Nhà nước chứ không phân chia chịu thuế như trước nữa.
Khi chia hoa lợi ruộng đất, xã
viên sẽ thanh toán lại với hợp tác xã về phần thuế tính vào diện tích dành lại
làm riêng và số thuế tính vào phần ruộng đất góp vào hợp tác xã, vì hợp tác xã
đã nộp các phần thuế này cho mình.
Cách thanh toán như sau:
a) Đối với những nông hộ và xã
viên nếu số diện tích ruộng đất để lại làm riêng và diện tích góp vào hợp tác
xã năm 1962 không thay đổi thì số thuế do xã viên phải thanh toán với hợp
tác xã bằng số thuế mà xã viên đã nộp trong năm 1961.
Ví dụ: Năm 1961, nông hộ ông B
có 5 nhân khẩu nông nghiệp, sản lượng thường niên tính thuế là 2000kg, thuế suất
là 16% thuế ghi thu cả năm là 320kg, trong đó: ông B có để lại 1 sào làm riêng,
sản lượng tính thuế là 100kg, tính thành thuế là 16%. Về số thuế của ruộng đất
góp vào hợp tác xã là 304kg, ông B phải nộp 50% là 152kg. Như vậy trong năm
1961 ông B đã nộp tất cả là 152kg+16kg = 168kg.
Sang năm 1962 diện tích ruộng đất
của ông B góp vào hợp tác xã cũng như để lại làm riêng không thay đổi,
cho nên số thuế ông B phải chịu vẫn giữ nguyên như năm 1961 tức là 168kg. Hợp
tác xã sẽ chịu trách nhiệm nộp tất cả cho Nhà nứơc và đến lúc chia hoa lợi ruộng
đất sẽ khấu trừ vào phần hoa lợi ruộng đất của ông B.
b) Nếu số diện tích để lại làm
riêng và diện tích góp vào hợp tác xã có tăng giảm thì phải chỉnh lại phần
thu thuế do xã viên phải chịu.
- Đối với ruộng đất để lại làm
riêng thì lấy thuế suất năm 1961 của mỗi nông hộ nhân với sản lượng thường niên
tính thuế của phần diện tính thực tế để lại làm riêng năm 1962.
- Đối với diện tích góp vào hợp
tác xã thì căn cứ vào số diện tích góp vào hợp tác xã năm 1962 còn hưởng
hoa lợi ruộng đất để tính toán là : lấy thuế suất năm 1961 của mỗi nông hộ nhân
với sản lượng thường niên tính thuế của số diện tích góp vào hợp tác xã năm
1962 còn hưởng hoa lợi ruộng đất để tìm riêng số thuế của diện tích đó, và dựa
vào tỷ lệ phân chia chịu thuế giữa hợp tác xã và xã viên đã quy định năm
1961 để tính số thuế của xã viên phải chịu trong năm 1962.
Ví dụ:
Năm 1961 nông hộ A, có 4 nhân khẩu
nông nghiệp,tổng số diện tích tính thuế là 1mẫu 2 sào, sản lượng tính thuế là
1200kg, thuế suất là 13%,thuế ghi thu 156kg, trong đó thuế tính vào 1 sào 5 thước
mà ông A để lại làm riêng là 19kg500. Về số thuế của ruộng đất góp vào hợp tác
xã là:
136kg500,ông A phải chịu 50% là
68kg250.
Cộng số thuế trong năm 1961 ông
A phải chịu là:
68kg250 +19kg500 = 87kg750
Năm 1962 : số diện tích dành lại
làm riêng của ông A chỉ còn 1 sào, sản lượng là 100kg, và số diện tích góp vào
hợp tác xã , ông A chỉ còn hưởng hoa lợi ruộng đất 8 sào nữa mà thôi sản lượng
tính thuế của 8 sào này là 800kg. Hợp tác xã sẽ thanh toán số thuế của ông A phải
chịu trong năm 1962 như sau:
- Phần thuế của ruộng đất dành lại
làm riêng :
- Số thuế của ruộng đất
góp vào hợp tác xã :
Riêng phần ông A phải chịu:
Cộng 13kg +52kg = 65kg.
2. Cách tính
thuế.
Để đơn giản việc tính thuế bớt
những phiền phức không cần thiết, trong năm nay sẽ căn cứ vào thuế suất bình quân
năm 1961của hợp tác xã để tính thuế cho năm 1962. Như thế nghĩa là, các hợp tác
xã sẽ lấy thuế suất bình quân năm 1961 của toàn hợp tác xã nhân với tổng sản lượng
chịu thuế hiện nay của hợp tác xã để tính thành thuế năm 1962.
Thuế suất bình quân =
|
Thuế
ghi thu của hợp tác xã năm 1961
|
Tổng
sản lượng thường niên chịu thuế của hợp tác xã năm 1961
|
Các Ban thuế nông nghiệp xã có
nhiệm vụ sưu tầm tài liệu tính toán thuế suất bình quân năm 1961, trực tiếp hướng
dẫn hợp tác xã kê khai, tính thuế và lập sổ thuế năm 1962.
Một số ví dụ về cách tính thuế:
a) Đối với hợp tác xã không thay
đổi ruộng đất như hợp tác xã (( Quyết thắng)).
- Trong năm 1961, diện tích tính
thuế là 52 mẫu gồm diện tích công hữu, diện tích xã viên góp vào phần làm riêng
của xã viên : sản lượng tính thuế là 60 tấn, thuế ghi thu (các nông hộ cộng lại
và phần thuế của diện tích công hữu) là 9 tấn. Thuế suất bình quân là 15%.
- Sang năm 1962 hợp tác xã “Quyết
thắng” không thêm bớt ruộng đất, nông hộ gì cả và trong quá trình kiểm tra
không tăng thêm diện tích. Như vậy cơ sở tính thuế năm 1962 vẫn bằng năm 1961
cho nên trong năm 1962 không cần tính thuế lại. Số thuế ghi thu năm 1962 của hợp
tác xã “Quyết thắng” vẫn là 9 tấn.
b) Đối với hợp tác xã có thêm bớt
ruộng đất như hợp tác xã “Hồng kỳ”.
- Trong năm 1961:
Tổng sản lượng chịu thuế của hợp
tác xã (gồm cả sản lượng thường niên chịu thuế của ruộng đất công hữu, cấy thêm
ruộng đất xã viên góp vào hợp tác xã, và phần làm riêng của xã
viên) là 100 tấn.
Tổng số thuế ghi thu (gồm tất cả
số thuế đã tính vào tất cả những loại ruộng đất kể trên) là 14 tấn.
Thuế suất bình quân là :
14: 100= 14%
- Năm 1962:
Do hợp tác xã cấy thêm hai mẫu
ruộng vắng chủ và trong đợt kiểm tra diện tích vừa qua đã tìm thêm được 3 mẫu mà
năm 1961 bỏ sót nên tổng sản lượng thường niên chịu thuế của năm 1962 là : 105
tấn.
Số thuế ghi thu năm 1962 là :
105tấn
´14
|
= 14 tấn 700kg
|
100
|
c) Đối với những hợp tác xã lớn
do nhiều hợp tác xã nhỏ hợp lại, thì cũng lấy tổng số thuế ghi thu năm 1961 của
hợp tác xã chia cho tổng sản lượng thường niên chịu thuế năm 1961 của hợp tác
xã cộng lại để tìm thuế suất bình quân,
Ví dụ: Hợp tác xã toàn thôn “Thống
nhất” gồm ba hợp tác xã nhỏ mới nhập lại từ vụ đông xuân năm 1962.
- Trong năm 1961:
Tổng sản lượng chịu thuế của ba
hợp tác xã (của tất cả các loại ruộng đất như trên) là 320 tấn (gồm của hợp tác
xã số 1 là 70 tấn, hợp tác xã số 2 là 130 tấn, hợp tác xã số 3 là 120 tấn).
Tổng số thuế ghi thu của ba hợp
tác xã (gồm tất cả số thuế ghi thu đã tính vào tất cả các loại ruộng đất) là 42
tấn, (gồm của hợp tác xã số 1 là 8T400, của hợp tác xã số 2 là : 18T200, của hợp
tác xã số 3 là : 15T400).
Thuế suất bình quân của hợp tác
xã số 1 là: 12%, hợp tác xã số 2 là 14%, hợp tác xã số 3 là 12,8%.
Thuế suất bình quân chung 1961 của
hợp tác xã “Thống nhất” là 42 tấn : 320 tấn = 13,1%.
- Năm 1962:
Tổng số sản lượng chịu thuế của
hợp tác xã Thống nhất là 370T vì có cày thêm ruộng đất và khi chống man
có phát hiện thêm:
Thuế ghi thu 1962 của hợp tác xã
là :
370tấn´13,1
|
= 48 tấn 470kg
|
100
|
d) Đối với những hợp tác xã mới
thành lập trong năm 1962 thì sẽ căn cứ vào tổng số thuế ghi thu năm 1961 của
nông hộ chia cho tổng sản lượng chịu thuế của nông hộ đã kê khai, để tìm thuế
suất bình quân năm 1961.Và trên cơ sở thuế suất bình quân năm 1961 nhân với sản
lượng chịu thuế năm 1962 của hợp tác xã ( gồm sản lượng của diện tích xã viên
góp vào,của diện tích ruộng cấy thêm, công hữu và của diện tích làm riêng của
xã viên ) để tính thuế 1962 cho hợp tác xã.
e) Đối với những hợp tác xã
trong năm 1962 có thêm hoặc bới xã viên thì trong lúc tính thuế suất bình
quân năm 1961 cần cộng vào hoặc bới đi những cơ sở để tìm thuế suất (sản
lượng tính thuế và số thuế ghi thu năm 1961) của các nông hộ mới vào hợp tác xã
hoặc xin ra hợp tác xã.
Đối với những nơi thi hành điều
lệ thuế nông nghiệp áp dụng ở những vùng miền núi cũng tính thuế như trên,
nghĩa là:
a) Nếu ruộng đất của hợp tác xã
trong năm 1962 không có gì thay đổi thì mức thuế ghi thu năm 1962 của hợp tác
xã là số thuế đã ghi thu trong năm 1961.
b) Nếu có thay đổi diện tích, sản
lượng do thêm bớt ruộng đất hoặc hợp nhất nhiều hợp tác xã nhỏ thành hợp tác xã
lớn hoặc do mới thành lập hợp tác xã thì cũng căn cứ vào thuế suất bình quân
năm 1961 để tính thuế cho năm 1962.
Ví dụ: hợp tác xã BảnMo, 17 hộ,
60 nhân khẩu nông nghiệp.
- Năm 1961:
- Sản lượng thường niên 24 tấn,
sau khi trừ miễn trưng 6 tấn, sản lượng chịu thuế là 18 tấn.
Thuế ghi thu là 2.200kg
(gồm tất cả số thuế tính vào các
loại ruộng đất công hữu, của xã viên góp vào phần để lại làm riêng)
Thuế suất bình quân năm 1961 là:
2.200kg : 18.000kg = 12,2%
- Năm 1962:
Do có 5 mẫu ruộng phục hồi đến hạn
chịu thuế nên sản lượng thường niên năm 1962 của hợp tác xã là 29 tấn và sau khi
trừ miễn trưng 6 tấn, sản lượng chịu thuế là : 23 tấn.
Thuế ghi thu năm 1962 của hợp
tác xã là:
23tấn
´12,2
|
= 2.806kg
|
100
|
Đối với phần thu hoạch về nương
rẫy cuối năm mới tính thuế. Về tỷ lệ và cách tính toán vẫn như chính sách hiện
hành. Trường hợp có những nông hộ, những hợp tác xã mà năm 1961 có được trừ miễn
trưng một phần thu hoạch về rẫy thì năm nay vẫn giữ nguyên số miễn trưng năm
1961 và số còn lại sẽ tính thuế năm 1962.
Như vậy, trong năm 1962 vì những
lý do đã nêu ở trên, ở miền xuôi cũng như ở miền núi đều không tính yếu tố tăng
hoặc giảm nhân khẩu nông nghiệp nữa.
3. Đối với phần
thuế tính vào ruộng đất dành lại làm riêng của xã viên hợp tác xã sẽ
thanh toán với xã viên trong khi chia hoa lợi.
Hợp tác xã (cấp cao cũng như cấp
thấp) lấy thuế suất năm 1961 của mỗi nông hộ nhân với phần sản lượng thường
niên của diện tích để lại làm riêng của xã viên, tính thành số thuế của
xã viên phải chịu mà hợp tác xã đã nộp hộ.
4. Cách tính miễn
giảm thuế nông nghiệp.
Trường hợp bị thiên tai, mất
mùa, hợp tác xã được miễn giảm thuế theo điều lệ hiện hành. Hàng năm ban thuế
nông nghiệp sẽ căn cứ vào thu hoạch thực tế trên diện tích chịu thuế của hợp
tác xã, nếu so với sản lượng chịu thuế mà còn bị sút kém, thì được miễn hoặc giảm
theo quy định ở điều 6 nghị định 375-TTg ngày 15-10-1959.
Cần chú ý là thu hoạch thực tế để
tính miễn giảm chỉ tính phần thu hoạch của diện tích chịu thuế mà thôi, không
tính phần thu hoạch của những diện tích đang được miễn thuế. Như vậy muốn tính
miễn giảm thuế phải chờ thu hoạch xong mới nắm được thực tế thu hoạch sẽ không
kịp thanh toán thuế nông nghiệp vụ Đông.
Do đó, vào khoảng sắp sửa thu hoạch
vụ mùa, Ủy ban hành chính xã cùng với ban quản trị hợp tác xã, có thể ước tính
năng suất của các hạng ruộng đất trong xã, trong hợp tác xã để tính thu hoạch vụ
mùa cho hợp tác xã và cộng với thu hoạch thực tế vụ chiêm, thành tổng số thu hoạch
thực tế cả năm của hợp tác xã.
Trong trường hợp so với thu hoạch
thực tế của hợp tác xã thì chưa đến tỷ lệ được giảm thuế nhưng có một số thửa
ruộng do thiên tai bị mất trắng hoặc sau khi tính thuế hợp tác xã đem sử dụng
vào việc khai thác không cày cấy được thì được miễn thuế về những thửa ruộng đó
theo chế độ mất trắng. Cách tính số thuế được miễn là : lấy thuế suất
bình quân của hợp tác xã nhân với sản lượng chịu thuế của những thửa ruộng bị mất
trắng.
5. Đối với nông
hộ cá thể.
Nếu trong năm 1962 không thay đổi
ruộng đất thì vẫn giữ nguyên số thúê ghi thu năm 1961. Nếu có thêm bớt ruộng đất
thì lấy thuế suất năm 1961 của nông hộ để tính thuế năm 1962 theo như cách tính
thuế của hợp tác xã đã nói ở trên.
Việc Chính phủ ban hành nghị định
sửa đổi một số biện pháp tính thuế, thu thuế và miễn giảm thuế nông nghiệp lần
này là nhằm mục đích đơn giản việc tính thuế cho phù hợp với quan hệ sản xuất và
tổ chức sản xuất ở nông thôn, đồng thời bảo đảm động viên hợp lý hơn một phần
thu nhập của hợp tác xã và cả nông dân để phục vụ nhu cầu công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa. Nó có một tác động lớn trong quần chúng và cán bộ, có ảnh hưởng trực
tiếp đến đóng góp và sản xuất của nhân dân. Vì vậy vấn đề phổ biến, giải thích
nội dung chính sách và hướng dẫn thực hiện cần được hết sức coi trọng.
Đề nghị Ủy ban hành chính tỉnh,
khu thành phố cần căn cứ vào tình hình cụ thể từng địa phương và tinh thần
thông tư này, có kế hoạch phổ biến giải thích thích hợp đến tận cấp lãnh đạo
huyện, xã, hợp tác xã và đến từng nông hộ xã viên và nông dân cá thể những
nội dung biện pháp tính thuế nông nghiệp mới. Cần đúc rút kinh nghiệm trong việc
phổ biến, kịp thời giải quyết tư tưởng, giải đáp thắc mắc cho cán bộ, xã viên
cũng như nông dân cá thể để trên dưới một lòng quyết tâm thực hiện tốt công tác
thuế nông nghiệp năm 1962 và đẩy mạnh hơn nữa nhiệm vụ sản xuất.
Đối với những nơi đang áp dụng
điều lệ thuế nông nghiệp vùng miền núi, cần nghiên cứu kỹ biện pháp thực hiện
nghị định của Hội đồng Chính phủ sát với hoàn cảnh thực tế của địa phương.
Trong khi thi hành, gặp khó khăn gì, sẽ trao đổi với Bộ để giải quyết.
|
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Thanh Sơn
|