BỘ
TÀI CHÍNH
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
14-TC/TDT
|
Hà
Nội, ngày 06 tháng 10 năm 1972
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH ĐIỀU LỆ NGÂN SÁCH XÃ BAN HÀNH THEO NGHỊ ĐỊNH
SỐ 64-CP NGÀY 08-4-1972 CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Hội đồng Chính phủ đã ban hành
Điều lệ ngân sách xã (nghị định số 64-CP ngày 08-4-1972 ([1])). Căn
cứ vào điều 3 của nghi định nói trên, Bộ ra thông tư này để nói rõ thêm một số
điểm nhằm làm cho việc tổ chức chỉ đạo thực hiện điều lệ được thống nhất, phù hợp
với hoàn cảnh các địa phương.
I. NẮM VỮNG
CHỨC TRÁCH, NHIỆM VỤ CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ VÀ Ý NGHĨA, TÁC DỤNG CỦA NGÂN SÁCH
XÃ
Trung ương Đảng và Chính phủ đã
nhiều lần xác định cấp xã là cấp cơ sở của Nhà nước ở nông thôn, là một cấp rất
quan trọng, ngày càng cần được củng cố thêm (nghị quyết số 29-CP tháng 01-1968
của Hội đồng Chính phủ, nghị quyết số 197-NQ/TW ngày 15-3-1970 của Bộ Chính trị).
Là cấp chính quyền cơ sở, xã phải
phát huy đầy đủ chức năng là cơ quan quyền lực và đơn vị hành chính của Nhà nước
ở nông thôn. Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính xã phải làm tròn nhiệm vụ
là những cơ quan đại diện của Nhà nước, đồng thời là đại diện của nhân dân, phải
vươn lên làm đầy đủ nhiệm vụ và sử dụng đúng đắn quyền hạn của mình - như đã
quy định trong luật pháp của Nhà nước - để tổ chức việc xây dựng nông thôn mới,
xã hội chủ nghĩa, phải giữ vững trật tự trị an, bảo vệ tài sản công cộng, nhất
là thường xuyên chăm lo công tác quản lý kinh tế, quản lý hợp tác xã, tổ chức đời
sống của nhân dân như nghị quyết 197-NQ/TW ngày 15-3-1970 của Bộ Chính trị đã đề
ra.
1. Quản lý kinh tế.
Do nền kinh tế của ta ở nông thôn là kinh tế tập thể nên tại cấp xã, Nhà nước
không chủ trương tổ chức các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc sở hữu toàn dân.
Nhiệm vụ của chính quyền cấp xã trong việc quản lý kinh tế là làm những công việc
thuộc quyền hạn và chức năng của mình để tạo điều kiện thuận lợi cho các hợp
tác xã và nhân dân lao động đẩy mạnh sản xuất, hoàn thành thắng lợi những nhiệm
vụ của kế hoạch Nhà nước giao cho và thi hành nghiêm chỉnh các nghĩa vụ đối với
Nhà nước. Cụ thể là:
a) Chính quyền cấp xã phải làm tốt
nhiệm vụ bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bao gồm tài sản của Nhà nước và tài sản
của hợp tác xã, đặc biệt phải rất coi trọng việc quản lý ruộng đất theo đúng
nghị quyết số 125-CP ngày 28-6-1971 của Hội đồng Chính phủ, bảo đảm cho ruộng đất
được sử dụng hợp lý và có hiệu quả kinh tế cao, diện tích không bị bỏ hoang,
không hao hụt.
b) Chính quyền cấp xã phải tăng
cường quản lý lao động, cụ thể là tổ chức chu đáo việc quản lý hộ tịch, hộ khẩu,
thực hiện nghị quyết số 104-CP ngày 27-6-1964 và các văn bản bổ sung nhằm hỗ trợ
cho công tác quản lý lao động của hợp tác xã, bảo đảm nghĩa vụ quân sự và kế hoạch
phân bổ lao động trong các ngành kinh tế quốc dân, phát hiện những tên đầu giải
đi "mộ" lao động ở các nơi để truy tố trước pháp luật.
c) Chính quyền cấp xã phải kiểm
tra việc chấp hành điều lệ hợp tác xã, các chính sách, chế độ, quản lý trong
các loại hợp tác xã: nông nghiệp, mua bán, tín dụng, thủ công nghiệp v.v… nhất
là kiểm tra tài chính và phân phối, động viên và giám sát các hợp tác xã làm đầy
đủ và đúng hạn mọi nghĩa vụ đối với Nhà nước.
2. Về mặt tổ chức đời sống của
nhân dân, thì chính quyền cấp xã trước hết phải làm tốt công tác quản lý
hành chính, giữ vững trật tự trị an, bảo vệ tài sản và tính mạng của nhân dân;
làm tốt công tác quân sự địa phương, tổ chức dân quân tự vệ, phòng không sơ tán
v.v…
Một nhiệm vụ rất quan trọng của
chính quyền cấp xã trước mắt cũng như sau này là không ngừng phát triển các sự
nghiệp văn hóa xã hội, y tế, vệ sinh, giáo dục, thông tin, bưu điện… để bảo vệ
sức khỏe, nâng cao trình độ về mọi mặt của nhân dân, có kế hoạch động viên và tổ
chức nhân dân xây dựng các công trình lợi ích công cộng như đường xá, cầu cống,
quán chợ, bến đò, trường học, trạm xá, câu lạc bộ, thư viện v.v…
Ngân sách xã chính là phương tiện
tài chính để bảo đảm cho Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính xã thực hiện một
cách có kế hoạch những nhiệm vụ trên đây.
Từ Cách mạng tháng tám tới nay,
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy định nội dung và cơ cấu thu chi ngân
sách xã vào các năm 1949, 1952, 1958. Rút kinh nghiệm trong việc thực hiện các
văn bản này quy định về ngân sách xã, Bộ Tài chính trong năm 1964 có đề ra chủ
trương xây dựng tài chính xã và đã thí điểm ở nhiều tỉnh. Tác dụng của chủ
trương xây dựng tài chính xã nói chung là tốt, rất nhiều địa phương đã phát huy
những khả năng tiềm tàng về kinh tế của xã, tạo ra cho các xã trong địa phương
mình một nguồn thu vững chắc, không phải dựa vào nân sách tỉnh. Nhưng do mối
quan hệ giữa xã và hợp tác xã trong thời kỳ này chưa được xác định rõ ràng nên ở
một số nơi có sự thiếu nhất trí giữa lợi ích của xã với lợi ích của hợp tác xã.
Hơn nữa, trong quan hệ giữa các xã với huyện và tỉnh cũng có những vấn đề cần
được xác định cho được chặt chẽ hơn và cụ thể hơn.
Vì những lẽ trên, Hội đồng Chính
phủ ban hành Điều lệ ngân sách xã mới nhằm ba mục đích:
a) Xác định rõ nội dung ngân
sách xã và những nguyên tắc quản lý ngân sách xã để Hội đồng nhân dân và Ủy ban
hành chính xã nắm vững và sử dụng một cách đúng đắn công cụ tài chính để làm tốt
nhiệm vụ của mình, nâng cao ý thức trách nhiệm và trình độ quản lý các công việc
của xã, biết dựa vào sức dân để thực hiện những nhiệm vụ mà chính quyền xã phải
đảm nhiệm, không quan liêu làm việc lối giấy tờ, hoàn toàn ỷ lại vào Nhà nước,
hoặc làm việc theo lối mệnh lệnh, thoát ly chỗ dựa là quần chúng nhân dân.
b) Xác định rõ mối quan hệ giữa
xã và hợp tác xã, đảm bảo thi hành đúng Điều lệ hợp tác xã và Điều lệ ngân sách
xã, chấm dứt tình trạng xã bổ bán cho hợp tác xã gánh chịu những khoản chi tiêu
không dính líu gì đến tài chính của hợp tác xã, hoặc ngược lại để cho hợp tác
xã chiếm dụng tài sản công cộng mà không đóng góp gì cho Nhà nước.
c) Xác định rõ mối quan hệ giữa
ngân sách xã và ngân sách tỉnh, thành phố, định rõ chế độ, thu, chi, trợ cấp,
khen thưởng vật chất v.v… để ngân sách tỉnh, thành phố có thể tập trung vào những
mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế địa phương, không chạy theo giải
quyết mọi việc chi tiêu phân tán ở xã. Mặt khác lại khuyến khích xã tích cực
hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, nỗ lực tăng thu, tiết kiệm chi, đúng chính
sách, chế độ, trên cơ sở ấy có phương tiện tài chính ngày càng dồi dào để mở
mang các sự nghiệp phục vụ lợi ích của nhân dân.
II. QUÁN TRIỆT
NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG ĐIỀU LỆ NGÂN SÁCH XÃ
Điều lệ đã cụ thể và rõ ràng nên
dưới đây Bộ chỉ giải thích một số điểm mới hoặc những điểm mà nội dung có chỗ
khác với cách hiểu và làm hiện nay.
1. Ngân sách xã gồm hai phần
lớn: chi và thu thường xuyên, và chi và thu không thường xuyên.
Chi thường xuyên là các
khoản chi hàng năm xã nào cũng phải thực hiện để đảm bảo hoạt động bình thường
của cơ quan chính quyền cấp xã. Các khoản chi này được bảo đảm bằng các khoản
thu thường xuyên theo chế độ và chính sách đã ban hành. Sau khi đã bố trí các
khoản chi một cách chặt chẽ, tiết kiệm, nếu số thu còn thừa thì có thể chuyển
sang để bổ sung cấp phát cho các khoản chi không thường xuyên.
Chi không thường xuyên là
những khoản chi nhằm thực hiện các công trình kiến thiết cơ bản nằm trong quy
hoạch xây dựng nông thôn mới của xã và do xã phải đảm nhiệm. Các khoản chi này
chủ yếu được đảm bảo bằng các khoản thu không thường xuyên như kết dư năm trước,
trợ cấp của tỉnh, động viên sức lao động của nhân dân…
Việc phân biệt hai loại chi, thu
như trên nhằm làm cho nhân dân và cán bộ thấy rõ tính chất phạm vi, mức độ của
từng loại để có biện pháp quản lý rành mạch, dễ hiểu, dễ so sánh năm này với
năm khác, xã này với xã khác, tiện cho việc theo dõi và kiểm soát của nhân dân
và của cấp trên.
2. Về chi: cần chú ý là
ngân sách xã chỉ được chi vào những công việc thuộc chức trách, nhiệm vụ của
chính quyền cấp xã, còn việc phát triển kinh tế tập thể thì do hợp tác xã thực
hiện với khả năng vốn tự có của hợp tác xã và sự giúp đỡ của Nhà nước (ngân
sách địa phương hoặc ngân sách trung ương).
Đối với những công việc vừa có
quan hệ đến kinh tế tập thể, vừa có quan hệ đến đời sống chung của nhân dân như
mở đường trong xã hay đường từ xã thông ra ngoài, làm công trình thủy lợi có lợi
ích cho nhiều hợp tác xã nằm trong xã thì Ủy ban hành chính xã đứng ra huy động
sức lao động của nhân dân và sự góp phần của hợp tác xã để thực hiện. Trường hợp
những công việc nói trên vượt ra ngoài phạm vi xã (có liên quan đến xã khác)
thì phải báo cáo lên cấp huyện quyết định.
Trong việc quản lý chi tiêu, Ủy
ban hành chính xã phải cân nhắc tính toán, vận dụng các tiêu chuẩn, định mức
cho sát, nhằm đảm bảo được công việc với số chi phí ít nhất. Phải tiết kiệm từng
đồng xu nhỏ của nhân dân, tránh phô trương hình thức, lãng phí sức người, sức của
của nhân dân. Đặc biệt không được bày ra việc này, việc khác để ăn uống liên
hoan, tiếp khách… ngoài chế độ, tiêu chuẩn đã quy định.
3. Về thu: Nguồn thu quan
trọng nhất của ngân sách xã là thu thường xuyên bao gồm các khoản thu cố định,
thu điều tiết và thu trợ cấp.
a) Các khoản thu cố định nói
trong điều lệ là những khoản thu về các tài sản do xã quản lý và thu về các sự
nghiệp kinh tế, văn hóa do xã tổ chức. Xã phải lo khai thác và phát triển các
nguồn thu này, vì đây là nguồn thu chủ yếu, lâu dài và ổn định nhất của xã.
Thu về hoa lợi công sản:
hiện nay xã nào cũng có những khoảnh đất công, đầm, hồ, ao mà nguồn gốc là của
công, trong cải cách ruộng đất không chia cho nông dân và những tài sản công
như rừng, núi, sông ngòi… nằm trong địa hạt xã, Nhà nước không có sức khai thác
hoặc không có điều kiện trực tiếp quản lý.
Theo tinh thần Nghị quyết số
125-CP của Hội đồng Chính phủ ngày 28-6-1971 thì ruộng đất, ao hồ, đồng cỏ dùng
vào sản xuất nông nghiệp thì giao cho hợp tác xã sản xuất nông nghiệp sử dụng với
điều kiện:
- Được Nhà nước chính thức chứng
nhận quyền quản lý và sử dụng ruộng đất.
- Sử dụng ruộng đất đúng mục
đích đã đề ra khi được Nhà nước cấp và làm tốt nghĩa vụ đóng góp đối với Nhà nước
theo chính sách quy định.
Như vậy là đối với ruộng đất, ao
hồ, đồng cỏ thì giao cho hợp tác xã sử dụng và tổ chức kinh doanh, nhưng hợp
tác xã phải trích một phần thu nhập để đóng góp cho xã.
Tuy nhiên, xét tình hình cụ thể,
từ năm 1964 đến nay, nhiều Ủy ban hành chính xã đã dùng vốn của ngân sách xã và
đã tích cực động viên nhân dân bỏ công sức ra khai thác, nay chuyển lại cho hợp
tác xã thì cần có biện pháp giải quyết một cách hợp lý.
- Đối với những vườn cây ăn quả
và những cơ sở nuôi cá do Ủy ban hành chính xã hiện đang trực tiếp quản lý và
thu hoa lợi thì Ủy ban hành chính huyện cần xem xét mọi mặt, bàn bạc kỹ với xã
và hợp tác xã để giải quyết thỏa đáng từng trường hợp một sao cho lợi ích của hợp
tác xã và của xã không trái ngược nhau và nhất là không gây thiệt hại cho sản
xuất. Nếu hợp tác xã nhận để tiếp tục khai thác thì hợp tác xã phải bảo đảm giữ
vững và phát triển cơ sở sản xuất và phải trả lại cho xã những chi phí xã đã bỏ
ra, theo những điều kiện thỏa thuận giữa 2 bên, ghi rõ trong hợp đồng được Ủy
ban hành chính huyện duyệt và kiểm tra việc thi hành. Cần rút kinh nghiệm trong
thời gian qua, một số nơi dùng biện pháp quan liêu, mệnh lệnh, giải quyết vội
vàng, đơn giản, làm ảnh hưởng đến sản xuất và lợi ích chung của nhân dân.
- Đối với những hoa lợi khác thuộc
về công sản như cây, cành, hoa quả của những cây cối có sẵn trên đất công hoặc
do xã tổ chức trồng ở ven đường, ven đê, trong sân trường học, trạm xá, trụ sở…
thì Ủy ban hành chính xã cần bảo vệ, phát triển và khai thác.
- Về cá tự nhiên trong những đầm,
hồ ao… chưa có hợp tác xã nào đăng ký xin sử dụng, Ủy ban hành chính xã cũng phải
lo bảo vệ và khai thác vì đây cũng là một nguồn thu đáng kể cho ngân sách xã.
- Đối với các tài sản vắng chủ
hay vô chủ, xã có nhiệm vụ trông nom, bảo vệ và chỉ được sử dụng nếu được Ủy
ban hành chính tỉnh cho phép.
Lệ phí đò, lệ phí chợ là
những khoản thu sự nghiệp. Xã phải sử dụng số tiền thu được trước hết vào việc
xây dựng quán chợ, nhà vệ sinh công cộng ở chợ, cũng như tu sửa bến đò, sửa chữa
đò, mua sắm phao bơi để bảo vệ tính mạng, tài sản cho khách qua đò. Mức thu phải
được Ủy ban hành chính tỉnh duyệt.
Thu về sự nghiệp y tế là
những khoản thu về các hoạt động của y tế xã gồm: hoa hồng bán thuốc và lãi sản
xuất thuốc đông y của trạm y tế xã, tiền góp về y tế của các hợp tác xã và của
các hộ ngoài hợp tác xã.
Khoản thu này dành riêng để chi
cho việc phát triển sự nghiệp y tế ở xã.
Thu về sự nghiệp giáo dục chủ
yếu là học phí các lớp mẫu giáo lớn, còn học phí cấp I, II thì xã có nhiệm vụ
kiểm tra đôn đốc các ban phụ huynh học sinh thu và nộp đầy đủ và đúng hạn cho
ngân sách tỉnh, thành phố.
Thu về các sự nghiệp khác
như cung cấp điện, nước (một vài nơi xã đã bắt đầu có điện, nước), thu về truyền
thanh, biểu diễn văn nghệ theo chế độ do Ủy ban hành chính tỉnh quy định.
Trích lãi hợp tác xã mua bán
xã theo chế độ của Nhà nước. Khoản thu này nhằm khuyến khích xã quan tâm giúp
đỡ hợp tác xã quản lý kinh doanh ngày một tốt. Đối với các loại hợp tác xã
khác, Bộ sẽ nghiên cứu và trình Hội đồng Chính phủ quy định sau.
Các khoản thu cố định khác
không thuộc các loại nói trên như tiền khấu hao về nhà cửa cho mượn, lệ phí giấy
tờ hành chính (hộ tịch, lý lịch, lệ phí về tổ chức đăng ký kết hôn…) tuy không
lớn, nhưng xã cần phải chú ý thu để dùng vào việc tổ chức tu sửa nhà cửa hoặc tổ
chức việc cấp phát giấy tờ hành chính cho đường hoàng, xứng đáng với vị trí của
một cấp chính quyền Nhà nước ở nông thôn.
b) Thu điều tiết là những
khoản thu về các loại thuế do cấp trên ủy cho xã thu và nộp cho Nhà nước, nhưng
được hưởng một phần điều tiết cho ngân sách xã. Nguồn thu này có tác dụng kích
thích xã ra sức phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch thu của tỉnh và cũng là để
bổ sung nguồn thu cho xã, nhằm giúp cho xã cân đối được các nguồn thu cho xã,
nhằm giúp cho xã cân đối được các nguồn thu với các khoản chi thường xuyên của
xã.
Căn cứ vào các chính sách chế độ
thu và chính sách chế độ giá cả hiện hành của Nhà nước, các khoản thu điều tiết
gồm có:
- Thuế nông nghiệp, với tỷ
lệ điều tiết chung cho toàn tỉnh là 13%: Ủy ban hành chính tỉnh cùng với Ủy ban
hành chính huyện sẽ tùy theo tình hình từng xã giàu, nghèo mà định tỷ lệ điều
tiết cụ thể riêng cho từng xã, song nhất thiết phải đảm bảo cho ngân sách xã được
phân phối đủ mức tối thiểu do tỉnh quy định (không dưới 7% số thuế nông nghiệp
thực thu) và phải giao hết cho các xã, không được giữ lại để chi tiêu ở cấp huyện,
cấp tỉnh, dù là chỉ giữ lại một phần.
- Thuế công thương nghiệp thu
ở xã, Ủy ban hành chính xã có nhiệm vụ giúp Phòng tài chính huyện thu các
thứ thuế hàng hóa vào những nguồn nông sản phải chịu những loại thuế này, sản
xuất trên đất vườn hoặc trên mảnh đất 5%, thuế buôn chuyến (thu tại gốc và vãng
lai qua xã chưa nộp thuế), thuế doanh nghiệp và lợi tức của các hộ nhỏ và các hợp
tác xã nông nghiệp kinh doanh ngành công thương nghiệp ở xã, nộp cho Nhà nước
theo sự hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc của Phòng tài chính huyện. Ngân sách xã được
hưởng tỷ lệ điều tiết về các thứ thuế công thương nghiệp do xã tổ chức thu. Tỷ
lệ điều tiết cho xã do Ủy ban hành chính tỉnh quy định tỷ lệ cho các vùng trung
du và đồng bằng (có thể định từ 10 đến 15%, các xã miền núi từ 20 đến 25% số
thuế thực nộp).
Nguyên tắc là sau khi xã nộp đủ
100% số thuế công thương nghiệp đã thu trong từng kỳ cho ngân sách tỉnh, thì tỉnh,
căn cứ vào tỷ lệ đã quy định mà cấp lại cho ngân sách xã phần ngân sách xã được
hưởng.
Thuế sát sinh: đối với
súc vật giết thịt ở xã thì xã được thu và trích cho ngân sách xã theo đúng chế
độ thuế sát sinh hiện hành, đối với súc vật giao nộp cho mậu dịch quốc doanh
thu mua để giết thịt (kể cả phần giao cho trung ương và phần được giữ lại tiêu
thụ ở địa phương) ngân sách xã được trích theo mức cố định như đã quy định tại
điểm B mục III Thông tư số 01-TC/TT ngày 05-01-1965 của Bộ Tài chính.
Trách nhiệm của Ủy ban hành
chính xã đối với các khoản thu điều tiết là phải bảo đảm nhiệm vụ kế hoạch thu
của tỉnh giao và chấp hành nghiêm chỉnh các chính sách chế độ thu mà Nhà nước
đã quy định.
Đối với khoản thu về tiền thưởng
giao nộp nông sản thực phẩm cho Nhà nước, Ủy ban hành chính tỉnh sẽ quy định
chế độ khen thưởng này theo nguyên tắc:
- xã hoàn thành kế hoạch thu mua
và giao nộp nông sản thực phẩm cho Nhà nước (về giá trị và về mặt hàng chủ yếu)
thì xã được thưởng một số tiền tính trên tổng giá trị hàng hóa đã giao nộp;
- xã hoàn thành vượt mức kế hoạch
thu mua và giao nộp hàng hóa thì xã được thưởng thêm một số tiền tính trên trị
giá số hàng hóa đã giao nộp vượt kế hoạch.
Tiêu chuẩn để xét thưởng là tác
dụng của xã về việc đôn đốc kiểm tra thực hiện kế hoạch thu mua và giao nộp
nông sản thực phẩm, có xác nhận của các ngành liên quan và của Ủy ban hành
chính huyện.
c) Các khoản thu trợ cấp
là những khoản do ngân sách tỉnh cấp cho ngân sách xã. Cần phân biệt trợ cấp nằm
trong thu thường xuyên và trợ cấp đặc biệt.
- Trợ cấp ghi trong thu thường
xuyên là:
a) Trợ cấp để đảm bảo trả thù
lao cho cán bộ chuyên trách ở xã theo chế độ Nhà nước quy định. Vì hiện nay
ngân sách của nhiều xã còn eo hẹp nên khoản trợ cấp này còn cần thiết.
b) Trợ cấp để thăng bằng ngân
sách cho những xã quá nghèo, số thu cố định và điều tiết của ngân sách xã chưa
đảm bảo được các khoản chỉ thường xuyên tối thiểu của xã.
Hướng phấn đấu là ngân sách xã
phải ra sức tăng thu, tiết kiệm chỉ để cân đối các khoản thu chi thường xuyên của
xã, tiến tới không cần phải xin trợ cấp của ngân sách tỉnh.
- Trợ cấp đặc biệt là khoản
trợ cấp mà tỉnh giúp cho xã để xây dựng những công trình có ý nghĩa chính trị đối
với xã hay những xã chung quanh, thí dụ: xây dựng trường học, trạm xá, làm cầu
cống, đường xá v.v…
Các khoản trợ cấp đặc biệt này
là khoản thu không thường xuyên, ghi vào ngân sách xã, nhưng khi công trình xây
dựng đã hoàn thành thì phải quyết toán riêng với cơ quan đã cấp kinh phí.
III. TÍCH CỰC
CHUẨN BỊ ĐỂ TỔ CHỨC THỰC HIỆN TỐT ĐIỀU LỆ NGÂN SÁCH XÃ
Chế độ ngân sách xã đã có từ
lâu, nhưng đến nay trong ngót 6.000 xã ở miền Bắc, chỉ mới trên 40% có thể coi
là đã thi hành chế độ tương đối có nề nếp; ở các nơi khác thực chất vẫn là chế
độ huyện quyết định từng khoản chi tiêu cho xã. Vì vậy việc tổ chức thực hiện
điều lệ mới về ngân sách xã không phải là tiếp tục thi hành chế độ cũ với sự giải
thích mới, mà là sự nhận thức mới về vị trí, chức trách, nhiệm vụ của chính quyền
cấp xã và về ý nghĩa, tác dụng của ngân sách xã trong việc củng cố chính quyền
của ta ở nông thôn, trong việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ngay tại
nơi mình sinh sống, nó đòi hỏi một sự chuẩn bị thật chu đáo, kỹ lưỡng.
Để việc thi hành Điều lệ ngân
sách xã phát huy đầy đủ tác dụng, đạt các yêu cầu đề ra, ở tất cả các địa
phương, Ủy ban hành chính tỉnh, huyện và các ngành chuyên môn có liên quan cần
tổ chức nghiên cứu điều lệ thật kỹ, có liên hệ với tình hình địa phương, phân
tích hết những thuận lợi và khó khăn, từ đó đề ra những chủ trương và biện pháp
để triển khai việc thực hiện điều lệ, Ty tài chính có trách nhiệm nắm tình
hình, chuẩn bị trước các tài liệu, dự thảo kế hoạch tiến hành… và chủ động đề
nghị với Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố mọi việc cần phải làm thích hợp với
hoàn cảnh địa phương.
a) Ở những tỉnh từ trước đã có
phong trào xây dựng ngân sách xã tương đối tốt, sau khi đã nắm vững tinh thần
và nội dung điều lệ mới, Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố cần xúc tiến những
công tác chuẩn bị cụ thể như: nghiên cứu và sớm ra những văn bản quy định và hướng
dẫn về tiêu chuẩn, định mức chi tiêu hành chính, sự nghiệp ở cấp xã để xã có
căn cứ thống nhất lập dự án ngân sách. Mặt khác cần quy định chính thức những
chế độ thu về lệ phí đò, chợ, về giấy tờ hành chính… đề ra các chủ trương giải
quyết các vấn đề cụ thể có liên quan đến phần thu của ngân sách xã như vấn đề sử
dụng đất công, vấn đề trách nhiệm và quyền lợi của xã trong việc chỉ đạo thu
thuế công thương nghiệp, việc thu mua, giao nộp nông sản thực phẩm v.v… để đưa
việc quản lý thu của ngân sách xã vào nề nếp.
Nguyên tắc thống nhất vào ngân
sách xã tất cả các khoản thu chi ở xã phải được chấp hành một cách nghiêm chỉnh,
vì chỉ có làm như vậy thì ngân sách xã mới phản ánh được mọi hoạt động phục vụ
lợi ích của nhân dân trong xã, mới làm cho Ủy ban hành chính xã thật sự là cấp
chính quyền cơ sở và mới giúp cho cán bộ xã nâng cao dần trình độ quản lý; sau
hết mới tạo điều kiện cho nhân dân kiểm tra được công tác của chính quyền, ngăn
ngừa được những việc làm tùy tiện của cán bộ, những sự lạm dụng chức quyền,
tham ô của công… Tuy nhiên do điều kiện của mỗi địa phương có khác nhau và
trình độ quản lý của xã hiện nay còn rất chênh lệch, nên Ủy ban hành chính tỉnh
phải căn cứ vào tình hình cụ thể mà hướng dẫn cách thực hiện nguyên tắc thống
nhất từng bước cho sát với hoàn cảnh địa phương.
Một việc khá quan trọng nhưng
thường chưa được chú ý đúng mức là việc tích cực chuẩn bị các phương tiện vật
chất để thi hành điều lệ như in và phân phối đủ sổ sách, giấy tờ kế toán theo
chế độ mới, kiện toàn tổ chức bộ máy tài chính xã cũng như bộ máy quản lý ngân
sách xã ở huyện và ở tỉnh, huấn luyện và bồi dưỡng cán bộ chuyên trách ngân
sách xã ở các cấp, phổ biến sâu rộng trong cán bộ và nhân dân điều lệ mới về
ngân sách xã… Bộ sẽ in và gửi về cho các tỉnh tập tài liệu gồm: nghị định số
64-CP của Hội đồng Chính phủ, Điều lệ ngân sách xã, chế độ kế toán ngân sách xã
và bản hướng dẫn cách lập dự toán, quyết toán ngân sách xã. Tỉnh nào cần và cần
bao nhiêu cuốn thì gửi ngay dự trù về Bộ (Vụ Tổng dự toán) để lập kế hoạch in
và phân phối.
Khi mọi công việc chuẩn bị đã
xong thì cần tổ chức một số cuộc họp với những cán bộ chủ chốt trong Ủy ban
hành chính huyện, Ủy ban hành chính xã và các ngành liên quan nhằm làm cho các
cán bộ nói trên quán triệt ý nghĩa, mục đích, nội dung của ngân sách xã để quyết
tâm khắc phục khó khăn, nghiêm chỉnh thi hành chế độ mới, nắm được trình tự
công việc phải tiến hành, dự kiến cách giải quyết các vấn đề cụ thể phát sinh
trong quá trình tổ chức thực hiện chế độ ngân sách xã.
Bộ sẽ phối hợp với một vài tỉnh
để rút kinh nghiệm tổ chức các cuộc họp này.
Sau đợt phổ biến điều lệ, tỉnh cần
chỉ đạo thí điểm một số xã, ở từng vùng để đi trước một bước, lấy kinh nghiệm kịp
thời phổ biến cho các xã khác.
Tóm lại, một công việc phải tiến
hành khẩn trương, nhưng phải theo trình tự nhất định, có kế hoạch cụ thể từng bước,
có lịch công tác trong từng thời kỳ, không thể nóng vội, làm ồ ạt được.
b) Ở những nơi phong trào xây
dựng ngân sách xã còn yếu: thì sau khi Ủy ban hành chính tỉnh tổ chức
nghiên cứu điều lệ, cần bàn bạc về chủ trương và phương hướng tổ chức thực hiện
ở địa phương. Sau đó cử cán bộ xuống cơ sở, điều tra nghiên cứu, sưu tầm tài liệu
giúp Ủy ban hành chính tỉnh trong việc xây dựng kế hoạch cụ thể triển khai công
tác ở từng huyện, đồng thời chuẩn bị dự thảo những quy định cần thiết về tiêu
chuẩn, định mức chi tiêu, về chế độ thu v.v… Đoàn cán bộ này cũng có thể được
giao nhiệm vụ chỉ đạo làm thí điểm ở một vài xã để rút kinh nghiệm.
c) Riêng ở các tỉnh miền núi,
theo điều 3 của nghị định số 64-CP, Ủy ban hành chính tỉnh cần nghiên cứu cách
vận dụng điều lệ này cho thích hợp với các xã ở miền núi, nhất là về nội dung
các khoản chi và các khoản thu, trong đó có những khoản quan trọng đối với miền
núi như nguồn thu từ việc bảo vệ rừng, hoặc từ việc quản lý thị trường mậu dịch
tiểu ngạch biên giới… Bộ sẽ cử cán bộ phối hợp với Ủy ban hành chính khu và một
số tỉnh để nghiên cứu các vấn đề này, trình Hội đồng Chính phủ quyết định.
Cuối cùng đề nghị Ủy ban hành
chính tỉnh, thành phố gửi về Bộ bản dự kiến kế hoạch và lịch công tác tổ chức
thực hiện Điều lệ ngân sách xã, trước ngày 31 tháng 10 năm 1972 để Bộ có kế hoạch
phối hợp công tác. Tỉnh nào đã bắt tay vào thực hiện chế độ mới thì xin gửi báo
cáo tình hình công tác về Bộ, cùng trong thời hạn ấy.
[1]) In trong Công báo số 6 năm 1972, trang 63.
|
BỘ TRƯỞNG BỘ
TÀI CHÍNH
Đặng Việt Châu
|