BỘ Y TẾ
*******
Số: 10-BYT-DC
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
Hà
Nội, ngày 28 tháng 04 năm 1959
|
THÔNG TƯ
GIẢI THÍCH QUYẾT ĐỊNH SỐ 311 NGÀY 28 THÁNG 4 NĂM 1959 VỀ VIỆC
CHO PHÉP NHỮNG NGƯỜI LÀM NGHỀ TƯ VỀ Y TẾ ĐƯỢC DỰ TRỮ MỘT SỐ THUỐC MEN VÀ ĐỒ
BĂNG BÓ
Kính
gửi:
|
Uỷ ban Hành
chính các khu, thành phố, tỉnh,
Các Ông Giám đốc các khu, Sở Y tế,
Các Ông Trưởng ty Y tế,
|
Thủ tướng phủ
đã ban hành điều lệ cho phép làm các nghề chữa bệnh, hộ sinh, chữa răng, bào chế
thuốc và bán thuốc (Nghị định số 965-TTg ngày 11-7-1956) trong đó đã có những
điều khoản nói rõ phạm vi trách nhiệm về từng nghề.
Xét ra trong
thời gian qua, một số tư nhân chưa chấp hành đúng điều lệ nói trên, hơn nữa lại
có những người vừa chữa bệnh vừa mua nhiều loại thuốc về bán lại cho bệnh nhân
và nhân dân quá giá quy định, trong đó khá phổ biến là các y tá làm tư ở nông
thôn.
Tình trạng
nói trên đã gây ra tác hại:
- Nhân dân và
người bệnh phải mua thuốc đắt, có khi bệnh không khỏi hoặc còn bị tai nạn.
- Gây khó
khăn cho việc quản lý thị trường thuốc men.
I. Ý NGHĨA MỤC ĐÍCH
Bộ ban hành
Quyết định số 311 ngày 28 tháng 4 năm 1959 nhằm mục đích:
- Chấm dứt
tình trạng làm nghề trái phép nói trên.
- Cho phép những
người làm các nghề tư này được dự trữ một số thuốc và đồ băng bó với số lượng
nhất định để dùng vào việc chữa bệnh và cấp cứu.
- Góp phần ổn
định giá thuốc đến tận tay người tiêu thụ.
- Tạo điều kiện
thêm cho việc cải tạo ngành Y, Dược tư nhân được dễ dàng.
II. NỘI DUNG
Sau đây, Bộ
nói rõ thêm một số vấn đề thuộc nội dung quy định để đề nghị các Uỷ ban và Khu,
Sở, Ty lưu ý khi công bố và thi hành Quyết định này:
a) Những người
làm nghề tư về chữa bệnh, đỡ đẻ, chữa răng chỉ được làm trong phạm vi nghề nghiệp
và khả năng của mình, khi bệnh nhân cần những thuốc gì, nếu không có trong quy
định thì tuỳ theo quyền hạn mà kê đơn cho bệnh nhân đi mua ở ngoài, nhất thiết
họ không được lợi dụng việc chữa bệnh để buôn bán thuốc cho bệnh nhân và không
được dự trự thuốc men trái với bản quy định.
b) Trong lúc
làm nghề, họ đã tính tiền thù lao với bệnh nhân nên việc cho phép họ mua dự trữ
sẵn một số thuốc là để dùng vào việc chữa bệnh hoặc cấp cứu nhằm phục vụ kịp thời
cho nghề nghiệp của mình cũng như đối với bệnh nhân nên các thuốc đó lúc dùng
cho bệnh nhân họ cần tính tiền đúng theo giá thuốc bán lẻ của nhà nước, chứ
không được lấy thêm tiền lãi vào thuốc.
c) Nội dung dự
trữ thuốc men và đồ băng bó tuỳ theo phạm vi nghề nghiệp và trình độ chuyên môn
mà có sự quy định khác nhau nhằm mục đích đảm bảo phục vụ tốt và kịp thời cho bệnh
nhân hợp với hoàn cảnh các địa phương:
1. Các
bác sĩ, y sĩ làm tư được dự trữ nhiều thuốc và đồ băng bó hơn các y tá và hộ
sinh, về loại thuốc cũng như về số lượng.
2. Các
y tá làm tư tại các địa phương việc mua bán thuốc tây và chữa bệnh cấp cứu được
thuận tiện, các y tá làm tư không được dự trữ thuốc men và đồ băng bó là cốt để
tránh những lợi dụng có thể xảy ra như trước đây.
Ở những địa
phương việc mua bán thuốc tây và chữa bệnh cấp cứu chưa thuận tiện, y tá được
chữa một số bệnh dễ chữa như nhức đầu, cảm sốt, đi rửa, ghẻ lở, v.v… (điều 3,
chương II, điều lệ tạm thời về việc làm các nghề chữa bệnh, hộ sinh, chữa răng,
bào chế thuốc và bán thuốc kèm theo Nghị định số 965-TTg ngày 11-7-1956 của Thủ
tướng phủ) mới được phép dự trữ một số thuốc và đồ băng bó như đã quy định nhằm
để đối phó với một số trường hợp bệnh tật cấp cứu và hợp với hoàn cảnh nông
thôn.
3. Các
hộ sinh làm tư chỉ được dự trữ một số thuốc và đồ băng bó dùng cho việc đỡ đẻ
và cấp cứu trong khi đỡ đẻ chứ không được dự trữ thêm các thuốc khác để chữa bệnh
như hiện nay một số hộ sinh vẫn làm.
d) Tất cả những
thuốc men và đồ băng bó được dự trữ phải bảo quản đúng luật lệ chuyên môn như sắp
xếp theo các bảng thuốc độc A, B, C, v.v… và bỏ vào tủ có khoá.
e) Những người
làm các nghề tư có chuyên khoa: các bác sĩ, y sĩ chuyên khoa như: điện quang X,
nhi khoa, phụ khoa, v.v… được dự trữ các thuốc và đồ băng bó thường dùng như
trong bản quy định, còn các thuốc dùng riêng cho khoa mình cũng như thuốc và
nguyên liệu chuyên dùng cho các nha sĩ và thợ chữa răng vì nhu cầu có nhiều chi
tiết hơn nên Bộ sẽ quy định sau.
III. PHƯƠNG PHÁP VÀ THỜI GIAN TIẾN HÀNH
Trong việc
thi hành Quyết định này những địa phương có nhiều bác sĩ, y sĩ làm tư tập trung
ở thành phố như Hà Nội, Hải Phòng, v.v… thì các Khu, Sở, Ty sẽ trực tiếp chỉ đạo
việc thực hiện, còn các địa phương khác có thể uỷ quyền cho cấp huyện.
Kế hoạch tiến
hành có thể chia ra làm 3 bước ngắn như sau:
Bước 1: Tổ
chức học tập
Các địa
phương sẽ tổ chức cho các đương sự học các bản Quyết định và quy định để liên hệ
kiểm điểm, giải quyết thắc mắc để họ thấy rõ lợi hại và tự giác chấp hành.
Phổ biến mẫu
sổ sách và bản kê khai thuốc tồn kho (mẫu số 1 và số 2 định theo đây) cho họ áp
dụng.
Bước 2: Kê
khai thuốc tồn kho
Sau khi học
xong, họ cần kê khai thuốc hiện dự trữ. Nếu những thứ nào có trong bản quy định
thì được tiếp tục dùng và tính tiền theo giá thuốc bán lẻ của Nhà nước.
Trường hợp có
những thứ thuốc mà số lượng quá mức quy định thì vẫn được phép dùng và sau khi
dùng hết số thuốc quá mức đó thì chỉ được dự trữ theo mức đã quy định.
Trường hợp những
thứ chưa có giá chỉ đạo, những thứ này cũng không nhiều nên Khu, Sở, Ty sẽ cùng
với cơ quan thương nghiệp và hiệu thuốc tây tỉnh định giá; thứ nào không thể định
giá được thì sẽ báo cáo lên Bộ Nội thương và Bộ Y tế Quyết định. Sau khi đã định
giá, lúc dùng cho bệnh nhân, họ cần tuân theo giá quy định.
Kể từ ngày ký
Quyết định hạn trong một tháng, việc kê khai thuốc tồn kho của họ cần làm xong
từ khu, thành phố tỉnh đến xã, khu phố; địa phương nào có hoàn cảnh thuận tiện
hoàn thành việc kê khai được sớm hơn càng hay.
Sau khi kê
khai xong, những thuốc không có trong bản quy định được gia hạn thêm 4 tháng để
tiêu thụ nốt, nếu quá hạn mà không dùng hết thì họ sẽ ủng hộ hoặc thương lượng
bán lại cho bệnh viện dùng.
Họ phải niêm
yết các giá thuốc (theo giá bán lẻ của Nhà nước hoặc giá mới được địa phương
duyệt y) của tất cả những thuốc được dự trữ theo quy định và thuốc không có
trong bản quy định được gia hạn để tiêu thụ nốt tại chỗ khám bệnh và tiếp bệnh
nhân những thuốc không có trong bản quy định phải yết thành một bản riêng.
Bước 3: Tiếp
tục việc quản lý.
Để giúp đỡ họ
chấp hành tốt Quyết định này, ngoài việc kiểm tra trực tiếp của cơ quan y tế, cứ
3 tháng một lần, nếu là bác sĩ, y sĩ, hộ sinh Đông Dương làm tư thì tự bản thân
họ cần đem sổ khám bệnh và xuất thuốc đến trình phòng y tế huyện, quận và khu
phố (đơn vị do Y sĩ phụ trách), nếu là y tá, hộ sinh sơ cấp có làm tư cần trình
với Ban y tế xã hoặc phố để cho cơ quan y tế theo dõi được sát hơn.
Ngoài ra, các
cấp xã và khu phố cần phổ biến rộng rãi trong nhân dân, những phần nội dung cần
thiết như những người làm nghề tư về y tế không được dự trữ thuốc trái với những
thuốc đã quy định và lúc dùng cho bệnh nhân phải tính tiền theo giá thuốc bán lẻ
của Nhà nước, v.v… để nhân dân cùng góp phần giám sát việc chấp hành của họ.
IV. MẤY VẤN ĐỀ
CẦN CHÚ Ý
Trong việc tiến
hành, các địa phương cần chú ý một số vấn đề sau đây:
a) Cần giải
thích và đề phòng họ tăng giá tiền thù lao đối với bệnh nhân sau khi thi hành
Quyết định hoặc nhân dịp này tìm cách gây khó khăn cho bệnh nhân trong việc chữa
bệnh hoặc cấp cứu.
b) Các túi
thuốc xã, xóm, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp do cán bộ y tế xã, xóm quản lý
không được bán tăng giá để bù vào thuốc hao hụt hoặc lấy lãi đó làm thù lao cho
cán bộ y tế xã xóm, mà cũng phải bán đúng theo giá bán lẻ của Nhà nước (công
văn số 8306-BYT/DC ngày 3-11-1958 của Bộ đã nhắc lại việc này), vì khi mua thuốc
ở các cửa hàng thuốc tây Quốc doanh hay Hợp tác xã đã được trừ thêm 5% trên giá
bán lẻ (chỉ thị số 120-KD ngày 4-10-1958 của Bộ Nội thương) nhằm giúp đỡ các
túi thuốc đó duy trì hoặc phát triển thêm.
c) Đối với một
số cán bộ Y tế có làm tư: một số vẫn còn đi chữa bệnh tư và có khi còn bán thuốc
cho nhân dân quá giá trong đó đáng kể là có cả một số cán bộ y tế xã, Bộ đề nghị
các Khu, Sở, Ty tăng cường việc giáo dục để chấm dứt tình trạng vừa làm công vừa
làm tư để cho số anh chị em đó toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân hơn nữa.
V. TỔNG KẾT
Bộ đề nghị
các địa phương chú ý theo dõi những điểm đã nêu ở mẫu báo cáo đính theo để việc
tổng kết được đầy đủ và hạn đến 30-6-1959 các Khu, Sở, Ty đã có báo cáo tổng kết
ở Bộ.
Trong lúc thi
hành Quyết định này, nếu có chỗ nào chưa đầy đủ hoặc gặp khó khăn gì Bộ đề nghị
các Uỷ ban và Khu, Sở, Ty báo cáo cho Bộ biết để bổ sung hoặc góp thêm ý kiến.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ Y TẾ
Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch
|
Mẫu số 1
SỔ KHÁM BỆNH VÀ XUẤT THUỐC
Số
thứ tự
|
Ngày
tháng
|
Họ
và tên người bệnh
|
Tuổi
|
Nghề
nghiệp
|
Địa
chỉ
|
Bệnh
trạng
|
Tên
thuốc và nguyên liệu đã dùng
|
Tiền
thuốc và nguyên liệu
|
Tiền
thù lao chữa bệnh
|
Cộng
số tiền
|
Bệnh
nhân ký tên
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
CƯỚC CHÚ:
- Nếu là bác
sĩ, y sĩ, nha sĩ, nữ hộ sinh Đông dương, hộ sinh trung cấp thì do Trưởng phòng
Y tế huyện, khu phố, quận ký tên ở trang đầu, ghi rõ tổng số trang và đóng dấu ở
mỗi trang và 3 tháng một lần bản thân mỗi người làm nghề phải đem sổ đến trình
với Trưởng phòng Y tế khu phố, quận, huyện.
- Nếu là y tá
hoặc hộ sinh sơ cấp thì do Ủy ban Hành chính xã, phố ký tên và đóng dấu như
trên, và 3 tháng một lần những người này phải tự mình đem sổ đến trình với Trưởng
ban Y tế xã hoặc phố.
- Sổ này sẽ
áp dụng cho cả các nha sĩ hay thợ chữa răng.
Mẫu số
2
BẢN KÊ KHAI THUỐC HIỆN CÓ ĐẾN NGÀY ………
Họ và tên:....................................................................
Chức vụ:......................................................................
Địa chỉ:........................................................................
Số
thứ tự
|
TÊN
THUỐC
|
Đơn
vị
|
Số
lượng
|
Chất
lượng
|
Giá
tiền do chủ nhân đề nghị
|
Giá
bán lẻ của Nhà nước hoặc giá đã được duyệt y
|
CƯỚC
CHÚ
|
|
A) Thuốc có
trong bản quy định 2677BYT/DC
B) Thuốc
không có trong bản quy định 2677BYT/DC
|
|
|
|
|
|
|
Ý kiến của cơ quan Y tế
.................................................................
.................................................................
.................................................................
|
Tổng cộng: ……………. đồng………
Ngày…… tháng…… năm……195……
Người khai ký tên
|
CƯỚC CHÚ: Bản kê khai này làm thành 3 bản để:
- Trình cơ quan Y tế địa phương 2 bản.
Sau khi cơ
quan Y tế và thương nghiệp duyệt y giá thuốc sẽ trả lại chủ nhân một bản.
- Chủ nhân giữ
một bản.
BÁO CÁO TỔNG KẾT
Công tác quản lý thuốc dự trữ của các tư nhân làm
nghề Y tế ở …………
A. Tình
hình:
a) Số lượng
các tư nhân:
- Bác sĩ.
- Y sĩ.
- Hộ sinh các
cấp (nữ hộ sinh Đông Dương, hộ sinh trung cấp, sơ cấp)
- Y tá (chia
ra Y tá tiêm theo đơn và Y tá có chữa bệnh).
b) Số lượng
cán bộ trong biên chế hoặc bán thoát ly có làm tư: Bác sĩ, Y sĩ, Y tá, Hộ sinh
các cấp, Cán bộ Y tế xã, Hộ sinh xã.
c) Sau khi tiến
hành công tác quản lý này số lượng nói trên có gì thay đổi không…… lý do……
B. Kết quả
việc quản lý thuốc dự trữ:
a) Thuốc có
trong quy định: số lượng viên, ống, gram, lít, v.v… (không cần kể tên thuốc) chất
lượng các thuốc này.
b) Thuốc
không có trong bản quy định: có bao nhiêu thứ, số lượng viên, ống, gram, lít,
v.v… chất lượng.
c) Tổng giá
trị thành tiền của hai loại thuốc này. Các mục trên có thể nêu dẫn chứng một số
trường hợp cá biệt như dự trữ nhiều, dự trữ có tính chất phổ biến là ở lớp người
có nghề nào?
d) Sau khi tiến
hành, có những thắc mắc gì còn lại cần giải quyết.
e) Góp ý kiến
về bản quy định thuốc dự trữ của Bộ; các loại thuốc và số lượng như vậy có cần
bổ sung gì không?
C. Các
kinh nghiệm và đề nghị khác.
D. Nhận
xét về sự hướng dẫn của Bộ.
CƯỚC CHÚ:
Báo cáo này
dài nhất là 2 trang và gửi về Bộ trước ngày 30-6-1959 làm 2 bản (Văn phòng Bộ
và Vụ Dược chính)