TỔNG CỤC BƯU ĐIỆN
******
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 07-LĐTL
|
Hà Nội, ngày 15
tháng 10 năm 1978
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG
DẪN THI HÀNH CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI TRƯỞNG TRẠM BƯU ĐIỆN XÃ VÀ BƯU TÁ XÃ
Trong những năm qua, ngành bưu điện đã tiến
hành cải tiến tổ chức, bưu điện địa phương theo quyết định số 93-CP ngày
05-05-1972 của Hội đồng Chính phủ, ở những nơi đã cải tiến tổ chức, các bưu điện
khu vực đã được thành lập, trạm bưu điện xã đã giải thể.
Tuy nhiên, cho đến nay ở các tỉnh miền núi
và nhiều nơi khác do chưa tiến hành cải tiến tổ chức bưu điện địa phương nên vẫn
còn tồn tại trạm bưu điện xã, nhưng chế độ đãi ngộ đối với trưởng trạm bưu điện
xã và bưu tá xã chưa được áp dụng thống nhất.
Để thi hành quyết định số 130-CP ngày
20-06-1975 của Hội đồng Chính phủ và các thông tư số 45-BT ngày 24-03-1976,
thông tư số 196-BT ngày 08-09-1977 của Phủ thủ tướng về việc bổ sung chính
sách, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ xã; căn cứ tình hình đặc điểm và nhiệm vụ của
trạm bưu điện xã, Tổng cục ra thông tư hướng dẫn việc thực hiện chế độ đãi ngộ
đối với trưởng trạm bưu điện xã và bưu tá xã như sau.
I. CHẾ ĐỘ THÙ LAO HÀNG
THÁNG
A. Đối với trưởng trạm bưu điện xã:
Trưởng trạm bưu điện xã được hưởng thù lao
hàng tháng bằng mức thù lao của cán bộ chuyên trách khác của xã theo đúng loại
xã đã được Ủy ban nhân dân địa phương phân loại:
Xã loại I: 25 đồng/tháng;
Xã loại II: 22 đồng/tháng.
Riêng các xã thuộc các tỉnh từ Quảng Nam
– Đà Nẵng trở vào theo quy định tại thông tư số 196-BT của Phủ thủ tướng thì:
Xã có khoảng 10.000 nhân khẩu trở lên, hưởng
thù lao 32 đồng/tháng;
Xã có khoảng 20.000 nhân khẩu trở lên, hưởng
thù lao 37 đồng/tháng.
Riêng đối với các xã ở miền núi cao, biên
giới, hải đảo nếu có dưới 2000 nhân khẩu cũng được hưởng thù lao theo mức 25 đồng/tháng.
Nếu trưởng trạm bưu điện xã do cán bộ
chuyên trách của xã kiêm nhiệm, đã hưởng trợ cấp hàng tháng do xã đài thọ rồi
thì thôi không hưởng thù lao do bưu điện trả nữa; nếu trưởng trạm bưu điện xã
do cán bộ nửa chuyên trách của xã kiêm nhiệm và đang hưởng trợ cấp hàng tháng
do xã đài thọ thấp hơn mức thù lao đối với trưởng trạm bưu điện xã thì bưu điện
sẽ trả thêm để bằng mức thù lao đã quy định trên.
B. Đối với bưu tá xã:
Các xã thuộc miền núi cao, biên giới, hải đảo,
hưởng thù lao 20 đồng/tháng;
Các xã khác còn lại hưởng thù lao 18 đồng/tháng.
C. Cách trả thù lao cho trưởng trạm bưu
điện xã, bưu tá xã vắng mặt vì việc riêng:
Trưởng trạm bưu điện xã, bưu tá xã vắng mặt
vì việc riêng như cha, mẹ, vợ chồng, con ốm nặng, chết hoặc gặp những tai nạn bất
thường… mà gia đình không có người giúp đỡ, được Ủy ban nhân dân xã xác nhận,
bưu điện huyện đồng ý, nếu vắng mặt từ một tháng trở xuống thì trong thời gian
nghỉ được hưởng nguyên thù lao trong tháng; nếu nghỉ trên một tháng thì từ
tháng thứ hai không được hưởng thù lao.
II. CHẾ ĐỘ ĐÀO TẠO BỒI
DƯỠNG
Để đảm bảo chất lượng phục vụ ngày càng
cao, các bưu điện tỉnh, thành phố cần có kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ hàng năm
cho cán bộ bưu điện xã. Trong thời gian đi dự các lớp huấn luyện hoặc hội nghị,
trưởng trạm bưu điện xã, bưu tá xã được hưởng:
Thù lao hàng tháng như khi làm việc;
Tiền tàu xe đi và về, tiền nghỉ trọ theo
giá vé thực chi;
Tiền phụ cấp ăn dọc đường, nếu đoạn đường
đi mất một ngày (không kể đi xe hay đi bộ) mà phải ăn ở ngoài cơ quan cả hai bữa
cơm, thì được cấp 0,80đ; nếu chỉ ăn ngoài cơ quan một bữa com thì được cấp
0,40đ.
Nếu đi bằng xe đạp tư (lên huyện, tỉnh) được
hưởng phục cấp ăn dọc đường như người đi bộ (thí dụ: đoạn đường phải đi bộ một
ngày và phải ăn cơm ở ngoài cơ quan cả hai bữa, nếu đi xe đạp tư chỉ mất nửa
ngày và chỉ ăn cơm ngoài một bữa thì cũng được hưởng phụ cấp ăn dọc đường 0,80đ
như người đi bộ).
Được cấp giấy mực, tài liệu dùng cho học tập.
Nữ trưởng trạm bưu điện xã, bưu tá xã có
con nhỏ dưới 3 tuổi mang theo trong thời gian dự lớp học hoặc dự hội nghị được
gửi con vào nhà trẻ, nhóm trẻ của cơ quan nhà hoặc nhà trẻ, nhóm trẻ gần nhất.
III. CHẾ ĐỘ KHI ỐM ĐAU,
SINH ĐẺ, CHẾT
A. Chế độ khi ốm đau:
Trưởng trạm bưu điện xã, bưu tá xã khi ốm đau
hoặc sức khỏe giảm sút được khám chữa bệnh, nằm điều trị ở bệnh xá, bệnh viện,
nơi an dưỡng, được hưởng các chế độ bồi dưỡng thuốc men và phải trả tiền ăn như
cán bộ, công nhân viên Nhà nước.
Trường hợp ở xa bệnh xá, bệnh viện khi đi
khám, chữa bệnh phải đi bằng tàu, xe thì được cấp tiền tàu, xe theo giá vé thực
chi.
Thời gian nằm điều trị ở bệnh xá, bệnh viện
được hưởng 100% thù lao hàng tháng, nhưng tối đa không quá ba tháng kể từ ngày
điều trị; kể từ tháng thứ tư nếu vẫn nằm điều trị thì không được hưởng thù lao
hàng tháng nữa.
B. Chế độ khi sinh đẻ:
Nữ trưởng trạm bưu điện xã, bưu tá xã nếu
sinh đẻ ở gia đình hoặc ở trạm hộ sinh xã, trạm y tế xã được trợ cấp sinh đẻ 7
đồng một lần và được hưởng bồi dưỡng thuốc men (nếu có). Nếu sinh đẻ ở bệnh xá,
bệnh viện được hưởng chế độ bồi dưỡng thuốc men như khi ốm đau và không được hưởng
trợ cấp sinh đẻ 7 đồng nữa.
Thời gian nghỉ đẻ là hai tháng được hưởng
100% thù lao hàng tháng; sau hai tháng nghỉ đẻ này, nếu vì con ốm yếu chưa tiếp
tục công tác được có giấy chứng nhận của y sĩ, bác sĩ phải nghỉ thêm, thì trong
thời gian nghỉ thêm chỉ được hưởng thù lao thêm một tháng nữa; kể từ tháng thứ
tư vẫn tiếp tục nghỉ thì không được hưởng thù lao.
C. Chế độ trợ cấp khi chết:
Trưởng trạm bưu điện xã, bưu tá xã khi chết
được trợ cấp như sau:
Chết ở bệnh xá, bệnh viện hoặc chết trong
khi đi công tác xa gia đình thì được trợ cấp 100 đồng;
Chết ở gia đình hoặc chết ở trạm y tế xã, hộ
sinh xã được trợ cấp 50 đồng.
Đối với các tỉnh từ Quảng Nam
– Đà Nẵng trở vào ở những nơi thương nghiệp chưa tổ chức bán áo quan theo giá
chỉ đạo thì có thể xét trợ cấp thêm một phần để mua áo quan như quy định tại
thông tư số 196-BT ngày 08-09-1977 của Phủ thủ tướng.
IV. CHẾ ĐỘ GIÚP ĐỠ GIA
ĐÌNH KHI GẶP KHÓ KHĂN
Theo quyết định số 130-CP ngày 20-6-1975 của
Hội đồng Chính phủ và công văn số 293-Thủ tướng Chính phủ ngày 5-10-1977 của
Ban tổ chức Chính phủ thì trưởng trạm bưu điện xã, bưu tá xã cũng được áp dụng
chế độ trợ cấp khi gia đình gặp khó khăn, túng thiếu, cụ thể là:
Trong thời gian đi học, vì ốm đau, gia đình
gặp khó khăn túng thiếu đột xuất được Ủy ban nhân dân xã, hợp tác xã săn sóc,
giúp đỡ thiết thực, như bố trí công việc thích hợp với sức khỏe và hoàn cảnh
gia đình, nếu vẫn còn có khó khăn ở mức phải trợ cấp thì Ủy ban nhân dân xã xác
nhận, bưu điện huyện đề nghị lên bưu điện tỉnh xét trợ cấp mỗi năm hai lần, mỗi
lần không quá 60 đồng.
Trường hợp vì phải bảo đảm công tác của bưu
điện hoặc gia đình gặp khó khăn, mặc dầu gia đình đã cố gắng lao động nhưng vẫn
thiếu lương thực thì hợp tác xã nông nghiệp cần điều hòa lương thực để đảm bảo
mức ăn bình quân trong hợp tác xã.
V. CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ KHI
GIÀ YẾU NGHỈ VIỆC
Trưởng trạm bưu điện xã có đủ các điều kiện
về tuổi đời, về thời gian công tác, khi già yếu nghỉ việc được hưởng chế độ trợ
cấp thường xuyên hàng tháng là 12 đồng theo quy định tại quyết định số 130-CP
ngày 20-06-1975 của Hội đồng Chính phủ (do thông tư liên bộ Tài chính – Tổng cục
Bưu điện hướng dẫn cụ thể).
VI. CÁC CHẾ ĐỘ KHÁC
Do đặc điểm của công tác bưu điện phải thường
xuyên phục vụ yêu cầu về thông tin liên lạc của các cơ quan, đoàn thể trong xã,
các cơ quan Nhà nước đóng tại địa phương và nhân dân, nên trưởng trạm bưu điện
xã được giảm một nửa số ngày công đóng góp ở xã và hợp tác xã như quy định tại
thông tư số 04-LĐTT ngày 13-03-1974 của Bộ Lao động.
VII. KINH PHÍ
Mọi chi phí nói ở mục I, II, III, IV đều do
bưu điện đài thọ và tính vào giá thành (điều khoản chi về bưu chính xã).
Để thực hiện nghiêm chỉnh thông tư này,
giám đốc các bưu điện tỉnh, thành cần tăng cường củng cố các trạm bưu điện xã
theo tinh thần chỉ thị số 08-CT ngày 27-05-1978 của Tổng cục (trừ những nơi đã
thực hiện cải tiến tổ chức bưu điện địa phương theo quyết định số 93-CP ngày
05-05-1972 của Hội đồng Chính phủ), phải căn cứ vào tình hình địa dư, khối lượng
công việc để xác định hợp lý số lượng bưu tá của mỗi xã, đồng thời làm tốt công
tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho nhân viên bưu điện xã để trạm bưu điện xã làm tốt
nhiệm vụ đã quy định trong thông tư số 05-LB ngày 10-01-1962 của liên Bộ Tổng cục
Bưu điện – Nội vụ - Tài chính.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01 tháng 10 năm 1978, những quy định trước đây trái với thông tư này đều
bãi bỏ.
|
KT. TỔNG CỤC TRƯỞNG
TỔNG CỤC BƯU ĐIỆN
TỔNG CỤC PHÓ
Vũ Văn Quý
|