PHỦ THỦ TƯỚNG
*******
Số: 057-TTg
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
Hà Nội, ngày 04
tháng 03 năm 1960
|
THÔNG TƯ
QUY
ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIẾT QUỐC HỘI CHO KỲ BẦU CỬ ĐẠI BIỂU
QUỐC HỘI KHÓA II
Nghị quyết của Quốc
hội ngày 31 tháng 12 năm 1959 đã giao Ban Thường trực Quốc hội và Hội đồng
Chính phủ tổ chức việc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa II trong 6 tháng đầu năm
1960.
Ban Thường trực Quốc
hội đã quyết định ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa II vào ngày 08 tháng 5 năm
1960.
Căn cứ vào Lụât bầu
cử đại biểu Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ quy định những chi tiết thi hành luật
bầu cử đại biểu Quốc hội cho kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội khóa II như sau:
I.
LẬP DANH SÁCH CỬ TRI
Danh sách cử tri phải
được lập xong và niêm yết chậm nhất là ngày 8 tháng 4 năm 1960. Yêu cầu của
việc lập danh sách cử tri là: không bỏ sót một người nào có quyền bầu cử và
không ghi lầm một người nào không có quyền bầu cử vào danh sách.
1. Điều kiện cử tri.
a) Công dân Việt Nam
từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt dân tộc, nòi giống, nam nữ, thành phần xã
hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tình trạng tài sản, trình độ văn hóa, nghề nghiệp,
thời hạn cư trú đều có quyền bầu cử.
b) Công dân đang ở
trong quân đội và các lực lượng công an nhân dân vũ trang có quyền bầu cử như
những công dân khác.
c)
Địa chủ được bầu cử theo những điều kiện sau đây:
- Ở vùng đã cải cách
ruộng đất, những địa chủ, nếu làm đúng theo quy định của Chính phủ, thì đã được
đổi thành phần rồi, nhưng vì Ủy ban hành chính xã và Ban Chấp hành Nông hội xã
chưa đề nghị và Ủy ban hành chính tỉnh chưa chuẩn y cho thay đổi thành phần,
thì trong cuộc bầu cử này coi như đã được thay đổi thành phần và được quyền bầu
cử.
- Ở vùng mới cải cách
dân chủ, địa chủ thường được Ủy ban hành chính xã và Ban Chấp hành Nông hội xã
đề nghị, được Ủy ban hành chính tỉnh chuẩn y, và địa chủ kháng chiến đều được
quyền bầu cử.
- Con địa chủ từ 18
tuổi trở lên đều có quyền bầu cử.
d) Những người bị Tòa
án hoặc pháp luật trước quyền bầu cử và ứng cử, và những người mất trí không có
quyền bầu cử.
Lúc lập danh sách cử
tri, những công dân có quyền bầu cử đại biểu Quốc hội, cư trú thường xuyên hay
tạm thời ở khu vực bỏ phiếu nào, đều được ghi tên vào danh sách cử tri của khu
vực bỏ phiếu đó.
2. Tổ chức phụ trách
lập danh sách cử tri.
Các Ủy ban hành chính
thị xã, khu phố, xã, thị trấn có nhiệm vụ lập danh sách cử tri.
Việc lập danh sách cử
tri đối với các đơn vị quân đội và công an nhân dân cũ trang do các Ban chỉ huy
các đơn vị đó phụ trách.
Ở mỗi thị xã, khu
phố, xã, thị trấn, nên có tổ chức chuyên trách giúp Ủy ban hành chính trong
việc lập danh sách cử tri: thẩm tra tư cách cử tri và đăng ký cử tri, thành
phần tổ chức đó có thể gồm một số trong những người sau đây: ủy viên Ủy ban
hành chính, đại diện Ban quản trị hợp tác xã hoặc Ban chấp hành Nông hội, cán
bộ công an, cán bộ hộ tịch, trưởng xóm, trưởng khu, trưởng ban đại biểu dân
phố, v.v… Thành phần phải gồm đủ người cần thiết nhưng phải gọn.
Ở mỗi xóm, mỗi phố
hay mỗi khối, nên có một số người giúp việc ghi tên các cử tri và nêu lên những
trường hợp cần xét về tư cách cử tri. Những người làm việc này có thể là:
trưởng xóm, công an xóm, công an phố, hộ tịch viên, tổ trưởng, tổ phó dân phố,
và một số thanh niên tốt, đọc viết thạo.
Trong việc lập danh sách
cử tri, các cơ quan Công an có nhiệm vụ cung cấp tài liệu cần thiết cho Ủy ban
hành chính.
3. Phương pháp lập
danh sách cử tri.
a) Chuẩn bị lập danh
sách:
Dựa vào các tài liệu
sẵn có như tài liệu về điều tra dân số, quản lý hộ khẩu, thuế nông nghiệp, v.v…
các nhân viên phụ trách lập danh sách phân công nhau đi từng hộ thẩm tra lại và
ghi tên những người có đủ điều kiện tham gia bầu cử. Đối với những trường hợp
chưa rõ, thì ghi riêng để điều tra thêm hoặc hỏi ý kiến cấp trên. Không nên vì
một đôi trường hợp chưa rõ mà đình chỉ toàn bộ công tác lập danh sách cử tri.
b) Lập danh sách:
Ở xã và thị trấn,
danh sách cử tri của mỗi khu vực bỏ phiếu lập theo xóm, phố, tên cử tri xếp
theo hộ. Ở thị xã và khu phố, danh sách cử tri của mỗi khu vực bỏ phiếu được lập
theo khối hay tổ dân phố, tên cử tri xếp theo hộ. Trong mỗi hộ, tên chủ hộ xếp
lên đầu. Các hộ xếp theo thứ tự từ đầu xóm đến cuối xóm hoặc từ đầu phố đến
cuối phố, hoặc theo một thứ tự thích hợp với hoàn cảnh địa phương.
Các danh sách sẽ được
đưa ra một cuộc họp nhân dân thảo luận để nhân dân góp ý kiến. Sau đó, các xóm,
phố, khối, tập trung danh sách cử tri lên Ủy ban hành chính cơ sở. Ủy ban hành
chính cơ sở cần xếp danh sách cử tri của các xóm, phố, khối trong khu vực bỏ
phiếu thành một danh sách cử tri của từng khu vực bỏ phiếu. Bản sao danh sách
cử tri của từng khu vực bỏ phiếu phải được niêm yết. Chủ tịch Ủy ban hành chính
cơ sở phải ký tên và đóng dấu Ủy ban hành chính vào từng danh sách cử tri (cả
bản chính để lưu ở trụ sở Ủy ban hành chính và bản sao để niêm yết).
Khi lập và sao danh
sách cử tri, không được bỏ sót, ghi trùng, nhầm lẫn tên, họ, không được ghi vào
danh sách những người đã bị tước quyền bầu cử. Có thể giao việc ghi chép danh
sách cho những người có trình độ văn hóa, viết chữ tốt, rõ,có tinh thần trách
nhiệm và tin cậy được, nên dùng mưc đậm màu, lâu phai.
c) Niêm yết, khiếu
nại, điều chỉnh danh sách:
Phải niêm yết bản sao
danh sách ở các nơi công cộng trong khu vực bỏ phiếu.
Sau khi đã niêm yết
danh sách, cần vận động nhân dân đến xem và thẩm tra danh sách. Nếu cử tri có
điều gì hỏi về danh sách thì phải giải thích, nếu có ý kiến khác nhau, thì phải
báo cáo lên cơ quan lập danh sách cử tri giải quyết.
Trong thời hạn 20
ngày, kể từ ngày niêm yết danh sách, ai có điều gì không đồng ý về danh sách cử
tri, thì có quyền báo cáo hoặc khiếu nại bằng miệng hay bằng giấy lên cơ quan
lập danh sách. Trong hạn 3 ngày, cơ quan này phải nghiên cứu và giải quyết cụ
thể những điều khiếu nại. Nếu người khiếu nại chưa đồng ý, thì có thể khiếu nại
lên Tòa án nhân dân huyện, châu, thị xã hay thành phố, các Tòa án này phải giải
quyết xong trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại.
Ở trụ sở các Ủy ban
hành chính cơ sở, cần có một quyển sổ để ghi những báo cáo hoặc khiếu nại của
nhân dân. Tại những thành phố và thị xã lớn, nếu có điều kiện, thì có thể đặt
quyển sổ này ở những nơi niêm yết danh sách. Nên có người thường trực để trông
nom danh sách, ghi những ý kiến của nhân dân về các điều sai sót và nhận những
đơn khiếu nại để chuyển lên cơ quan lập danh sách nghiên cứu và giải quyết.
Từ khi công bố danh
sách cử tri cho đến ngày bầu cử, nếu cử tri nào không thể tham gia bỏ phiếu
được ở nơi đã được ghi tên, thì có thể xin chứng nhận của Ủy ban hành chính cơ
sở nơi đó vào thẻ cử tri của mình để xin ghi tên vào nơi khác. Ủy ban hành
chính phải dành mọi sự dễ dàng và nhanh chóng trong việc chứng nhận để cử tri
có thể tham gia bỏ phiếu nơi khác. Khi chứng nhận, Ủy ban hành chính phải xóa
bỏ tên cử tri đó trên danh sách và ghi bên cạnh: "Đi bỏ phiếu nơi
khác".
d) Đối với cử tri
trong các cơ quan, công trường, nông trường, xí nghiệp, trường học:
Đối với những người
làm việc ở các cơ quan, công trường, nông trường, xí nghiệp, trường học, ăn ở
tập thể ở xóm, phố, khối, thì người phụ trách xóm, phố, khối phải liên lạc với
người phụ trách các tổ chức đó để lấy tên cử tri kê vào danh sách chung với
nhân dân.
Người phụ trách các
tổ chức nói trên lập danh sách cử tri thuộc tổ chức mình và chuyển cho cơ quan
lập danh sách cử tri của chính quyền địa phương. Bản danh sách này phải được cử
tri trong đơn vị tham gia ý kiến để tránh nhầm lẫn, thiếu sót.
đ) Đối với cử tri
trong quân đội và công an nhân dân vũ trang:
Danh sách cử tri của
quân đội và của công an nhân dân vũ trang chỉ công bố trong đơn vị quân đội và
công an nhân dân vũ trang.
Những cử tri trong
quân đội và công an nhân dân vũ trang biệt phái đi công tác ở ngoài nơi đơn vị
mình đóng quân, sẽ được ghi vào danh sách cử tri thuộc khu vực bỏ phiếu nơi đến
công tác, những người công tác ở đơn vị nhưng được ở ngoài doanh trại, vẫn được
ghi vào danh sách cử tri của đơn vị quân đội hay công an nhân dân vũ trang.
II.
ĐỊNH CÁC KHU VỰC BỎ PHIẾU
Các khu vực bỏ phiếu
do Ủy ban hành chính cơ sở ấn định phạm vi, số hiệu, và công bố chậm nhất vào
ngày 29 tháng 3 năm 1960. Ấn định các khu vực bỏ phiếu là một việc khó khăn và
phức tạp, vì vậy Ủy ban hành chính huyện, châu (đối với xã và thị trấn), tỉnh
(đối với thị xã) và thành phố (đối với khu phố) có trách nhiệm hướng dẫn và xét
duyệt việc ấn định khu vực bỏ phiếu của các Ủy ban hành chính cơ sở.
Việc lập khu vực bỏ
phiếu phải dựa trên các điều kiện sinh hoạt, cư trú của nhân dân, hoàn cảnh địa
lý, khả năng lãnh đạo và khả năng tổ chức của địa phương, và theo đúng tiêu
chuẩn dân số đã định trong luật bầu cử.
Mỗi khu vực bỏ phiếu
đều nằm trong phạm vi một thị xã, khu phố, xã, thị trấn và gồm một hoặc nhiều
thôn, bản, xóm, khối.
Các đơn vị quân đội
và công an nhân dân vũ trang sẽ thành lập khu vực bỏ phiếu riêng nhưng vẫn
thuộc đơn vị bầu cử nơi đóng quân. Có thể lấy tiểu đoàn hoặc trung đoàn làm đơn
vị để chia khu vực bỏ phiếu. Đối với những đơn vị quân đội và công an nhân dân
vũ trang ở lẻ tẻ, nếu không tiện sát nhập với những đơn vị quân đội và công an
nhân dân vũ trang ở nơi gần nhất, và cũng không tiện thành lập một khu vực bỏ
phiếu riêng thì có thể để sát nhập vào khu vực bỏ phiếu chung với nhân dân.
III.
THÀNH LẬP CÁC BAN BẦU CỬ VÀ CÁC TỔ BẦU CỬ
Ở tỉnh, khu, thành
phố trực thuộc Trung ương, Ủy ban hành chính mời các chính đảng và đoàn thể
nhân dân ở địa phương cử đại biểu vào Ban bầu cử (hoặc các Ban bầu cử) thuộc
địa phương. Việc thành lập Ban bầu cử (hoặc các Ban bầu cử) chậm nhất phải xong
vào ngày 24 tháng 3 năm 1960.
Ở thị xã, khu phố, xã
và thị trán, Ủy ban hành chính cơ sở mời các đoàn thể và các giới cử đại biểu
vào các Tổ bầu cử ở các khu vực bỏ phiếu. Việc thành lập các Tổ bầu cử chậm
nhất phải xong vào ngày 18 tháng 4 năm 1960.
Những đại biểu được
cử vào các Ban, các Tổ bầu cử phải là những người được nhân dân tín nhiệm và có
khả năng làm việc.
Các Ban và các Tổ bầu
cử phải học tập kỹ thể lệ bầu cử, quyền hạn, nhiệm vụ của mình và định chương
trình công tác cụ thể.
Ủy ban hành chính và
các cơ quan Nhà nước có nhiệm vụ giúp các Ban và các Tổ bầu cử có những phương
tiện làm việc cần thiết.
IV.
LẬP DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI ỨNG CỬ
Trước ngày 8 tháng 4
năm 1960, các chính đảng, các đoàn thể nhân dân giới thiệu người ra ứng cử phải
nộp tại Ban bầu cử giấy giới thiệu người ra ứng cử, đơn ứng cử của người được
giới thiệu và giấy chứng nhận người ứng cử có đủ điều kiện ứng cử.
Trước ngày 8 tháng 4
năm 1960, những người tự ra ứng cử phải nộp tại Ban bầu cử đơn ứng cử và giấy
chứng nhận có đủ điều kiện ứng cử.
Giấy chứng nhận người
ứng cử có đủ điều kiện ứng cử, có thể do Ủy ban hành chính nơi lập danh sách,
Ủy ban hành chính cấp trên, hoặc Bộ Nội vụ cấp tùy theo điều kiện cư trú của
người ứng cử. Trong giấy phải ghi rõ người đó có đủ điều kiện tuổi để ứng cử,
không bị Tòa án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử, ứng cử và không bị mất trí.
Địa chủ và con địa
chủ nói trong phần điều kiện cử tri (đoạn c) của thông tư này được coi như
không bị tươc quyền ứng cử.
Danh sách những người
ứng cử phải được Ban bầu cử công bố chậm nhất là ngày 18 tháng 4 năm 1960.
V.
TỔ CHỨC NGÀY BỎ PHIẾU, SƠ KẾT VÀ TỔNG KẾT
1. Tổ chức ngày bỏ
phiếu.
Ngày bỏ phiếu đã được
Ban Thường trực Quốc hội ấn định thống nhất cho các nơi là ngày 8 tháng 5 năm
1960. Các địa phương phải tuyệt đối bảo đảm thực hiện cuộc bỏ phiếu đúng ngày
đó.
Gần đến ngày bầu cử,
các Ban bầu cử và Tổ bầu cử cần họp kiểm điểm công việc và hoàn thành mọi công
tác chuẩn bị.
Trong ngày bầu cử,
cần chú ý những điểm sau đây:
a) Các phòng bỏ phiếu
phải có nội quy. Nội quy phòng bỏ phiếu do Tổ bầu cử lập, theo sự hướng dẫn của
Ban bầu cử.
b) Cử tri không biết
chữ có thể nhờ người khác biết chữ viết hộ. Đặc biệt ở một vài nơi, còn nhiều
người không biết chữ, thì Ban bầu cử có thể dùng mọi phương pháp thích hợp để
cử tri dễ dàng chọn đại biểu, nhưng phải bảo đảm nguyên tắc bỏ phiếu kín.
c) Nên nói cho cử tri
biết là không nên ký vào phiếu bầu cử. Nhưng nếu có người trót ký lỡ rồi, thì
phiếu bầu vẫn hợp lệ.
Cử tri gạch phiếu
hỏng có thể xin đổi một phiếu khác; nhưng Tổ bầu cử cần phải giữ lại phiếu hỏng
khi phát phiếu mới, và phải bảo đảm bí mật về lá phiếu viết hỏng, không được để
lộ ý định của cử tri muốn bỏ cho ai.
d) Tổ bầu cử phải
điều tra trước khu vực bỏ phiếu của mình có bao nhiêu người già yếu, ốm đau,
tàn tật không đến phòng bỏ phiếu được, để tổ chức hòm phiếu phụ. Trước khi đưa
hòm phiếu phụ đến tận nhà cử tri, Tổ bầu cử phải mở nắp hòm phiếu, dốc ngược và
giơ cao hòm phiếu cho mọi người thấy rõ là trong hòm phiếu không có gì, sau đó
đậy kín nắp lại, niêm phong rồi cử hai tổ viên Tổ bầu cử và mời hai cử tri đi
theo chứng kiến. Hòm phiếu này được đem về phòng bỏ phiếu của khu vực để cùng
một chỗ với hòm phiếu chính.
d) Trong khi đang bỏ
phiếu, nếu có cử tri nơi khác đến xuất trình giấy chứng nhận không thể tham gia
bỏ phiếu ở nơi đã được ghi tên vào danh sách cử tri, thì Tổ bầu cử cho ghi tên
thêm vào danh sách cử tri của khu vực mình, cấp phiếu bầu và cho bỏ phiếu.
Trường hợp cần xét rõ hơn, Tổ bầu cử có thể đòi xuất trình những giấy tờ chứng
minh cần thiết khác.
e) Trong ngày bầu cử,
Tổ bầu cử cần phải cố gắng khắc phục khó khăn bảo đảm cho cuộc bỏ phiếu được liên
tục và làm xong nội trong ngày.
g) Nơi nào toàn thể
cử tri của mình đã bỏ phiếu xong trước 7 giờ tối thì cũng phải chờ tới 7 giờ
tối mới được kết thúc cuộc bỏ phiếu, vì có thể còn có những người ở nơi khác
đến bỏ phiếu như nói ở điểm đ.
h) Kiểm phiếu xong,
Tổ bầu cử lập biên bản đúng theo mẫu đã quy định. Biên bản lập thành hai bản,
một bản gửi ngay đến Ban bầu cử kèm theo tờ trình và các đơn khiếu nại (nếu
có), một bản để cùng với các phiếu bầu (gói riêng thành từng loại: hợp lệ,
không hợp lệ, phiếu trắng) vào hòm phiếu, đậy nắp lại, khóa và niêm phong cẩn
thận rồi giao cho Ủy ban hành chính thị xã, khu phố, xã, thị trấn giữ cho đến
khi Quốc hội xác nhận xong tư cách các đại biểu trúng cử. Bản sao của biên bản
phải được Tổ bầu cử niêm yết tại trụ sở Ủy ban hành chính thị xã, khu phố, xã
hoặc thị trấn.
2. Sơ kết, tổng kết.
Sau khi nhận được đầy
đủ hồ sơ bầu cử của các Tổ bầu cử, Ban bầu cử họp lại xét các tài liệu đó, làm
thống cho toàn đơn vị bầu cử và làm biên bản sơ kết.
Biên bản sơ kết đó
viết thành hai bản: một bản gửi ngay đến Hội đồng bầu cử đính theo những đơn
khiếu nại, các tờ trình của các Tổ bầu cử và tờ trình của Ban bầu cử nếu có;
một bản gửi đến Ủy ban hành chính thành phố trực thuộc Trung ương, tỉnh hoặc
khu cùng với những hồ sơ (của Tổ bầu cử) xét không cần thiết phải gửi đến Hội
đồng bầu cử.
Các Ban bầu cử cần
gửi biên bản sơ kết và các tài liệu khác lên Hội đồng bầu cử một cách nhanh
chóng để Hội đồng bầu cử kịp thời làm biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu
Quốc hội và công bố kết quả bầu cử cho nhân dân biết.
VI.
CHUẨN BỊ TÀI LIỆU, VẬT LIỆU CẦN THIẾT CHO CUỘC BẦU CỬ
Ủy ban hành chính
thành phố trực thuộc Trung ương, tỉnh và khu, phụ trách phân phối kịp thời
những tài liệu và vật liệu cần thiết cho Ban bầu cử và Tổ bầu cử:
1. Luật bầu cử đại biểu
Quốc hội, thông tư quy định chi tiết thi hành của Thủ tướng Chính phủ, các văn
bản cần thiết của khu, thành phố trực thuộc Trung ương, tỉnh.
2. Danh sách cử tri
theo mẫu số 1 và danh sách những người ứng cử theo mẫu số 2.
3. Các thứ biên bản:
biên bản kiểm phiếu theo mẫu số 3, biên bản sơ kết theo mẫu số 4.
4. Thẻ cử tri làm bằng
giấy dày, màu trắng hay màu ngà, hình chữ nhật, ngang chứng 14 phân, dọc chừng
10 phân theo mẫu số 5.
Mặt trước thẻ cử tri
có ghi các mục theo thứ tự sau đây: Họ tên cử tri, tuổi hay ngày tháng năm
sinh, nơi sinh, dân tộc, nam hay nữ, nghề nghiệp, chỗ ở. Ở góc bên trái phía
dưới là chỗ ký tên của cử tri. Mặt sau thẻ cử tri để trắng. Khi cử tri đến bỏ
phiếu thì Tổ bầu cử đóng dấu vào mặt sau thẻ để chứng nhận là cử tri đã bỏ
phiếu.
Ủy ban hành chính nơi
lập danh sách cử tri sẽ phụ trách viết thẻ, ký và đóng dấu vào thẻ cử tri. Thẻ
cử tri phải có số theo số thứ tự ghi trên danh sách cử tri.
Ủy ban hành chính cơ
sở phát thẻ cho cử tri chậm nhất là ngày 1 tháng 5 năm 1960.
5. Phiếu bầu cử: Phiếu
bầu cử nên in sẵn tên những người ứng cử trong đơn vị, làm bằng giấy trắng,
hình chữ nhật, ngang chừng 12 phân, dọc chừng 17 phân theo mẫu số 6.
Phiếu bầu cử chỉ in
một mặt, măặ sau để trắng. Tên họ những người ứng cử in theo thứ tự ABC có đánh
dấu cẩn thận, tên phải in chữ to hơn, nét đậm hơn. Ở những vùng mà nhân dân
thường dùng nhiều thứ chữ, phiếu bầu cử có thể không in sẵn tên người ứng cử,
để cử tri có thể viết tên người mình chọn theo thứ chữ mình quen đúng.
6. Hòm phiếu: Tùy theo
số cử tri nhiều ít mà làm theo kích thước như sau:
a) Số cử tri không
quá 1.000:
Hòm phiếu chiều dài chừng
Hòm phiếu chiều rộng chừng
Hòm phiếu chiều cao chừng
|
55 phân,
35 phân,
38 phân,
|
b) Số công dân trên
1.000
Hòm phiếu chiều dài chừng
Hòm phiếu chiều rộng chừng
Hòm phiếu chiều cao chừng
|
70 phân,
45 phân,
48 phân,
|
Giữa nắp hòm phiếu
chỉ có một khe hở chênh chếch, dài độ 10 phân, rộng độ 7 ly. Nắp hòm phiếu phụ
cũng phải có khe hở đủ để bỏ vừa lá phiếu bầu.
Nơi nào đã có hòm
phiếu dùng hoặc gần đúng như kích thước này rồi thì không phải làm hòm phiếu
mới. Nơi nào chưa có hoặc có rồi nhưng không đúch kích thước như trên, thì phải
làm hòm phiếu mới.
7. Dấu của Ban bầu cử
theo mẫu số 7, và dấu của các Tổ bầu cử theo mẫu số 8.
8. Vật liệu văn phòng
cho phòng bỏ phiếu: cần chuẩn bị trước giấy, mực, bút mực, bút chì, hồ dán,
giấy thấm, đinh ghim, đèn, mực dấu và con dấu để đóng dấu và các phiếu bầu;
phải phân phối trước những vạt liệu này cho các phòng bỏ phiếu.
Để thực hành tiết
kiệm, tránh lãng phí, các Ủy ban hành chính cần cố gắng chuẩn bị đủ các phương
tiện cần thiết cho việc bầu cử bằng cách tận dụng những thứ sẵn có, và có thể
mượn trong địa phương, chỉ mua sắm những thứ mà địa phương không thể tự túc
được. Khi cuộc bỏ phiếu đã xong, các Tổ bầu cử phải thu lại những vật liệu chưa
dùng hết và giao cho Ủy ban hành chính cơ sở để sử dụng hợp lý theo sự hướng
dẫn của cơ quan tài chính tỉnh, khu, thành phố trực thuộc Trung ương.
|
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Phạm Văn Đồng
|
MẪU
SỐ 1
Tỉnh, Khu ……………….
(hay là Thành phố)
***
Huyện (hay là Quận) ………………
***
Xã (hay là Khu phố) …………
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
DANH
SÁCH CỬ TRI
BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI KHÓA II
Khu vực bỏ
phiếu……………. (1)
Số thứ tự
|
HỌ VÀ TÊN CỬ TRI (2)
|
Tuổi
|
Nam hay nữ
|
CHỖ Ở
|
Dân tộc
|
CHÚ THÍCH
|
1
2
3
4
|
Nguyễn Văn Ca
Nguyễn Thị Lý
Trần Văn Hùng
Lê Thị Kha
….
|
40
32
50
25
|
Nam
Nữ
Nam
Nữ
|
1 Hàng Bông
1 Hàng Bông
2 Hàng Bông
2 Hàng Bông
|
Kinh
Kinh
Kinh
Thổ
|
|
Tổng số cử tri trong
danh sách là……………………
Làm tại……………..
ngày……….. tháng……… năm 1960
|
CƠ QUAN LẬP DANH
SÁCH
ký tên và đóng dấu
|
MẪU
SỐ 2
Tỉnh, Khu ……………….
(hay là Thành phố)
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
DANH
SÁCH NHỮNG NGƯỜI ỨNG CỬ
ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI KHÓA II
Bầu cử ngày……….
tháng……. năm 1960
Đơn vị bầu cử……………. (1)
Số thứ tự
|
HỌ TÊN NGƯỜI ỨNG CỬ
(theo thứ tự ABC)
|
Năm sinh
|
Nam hay nữ
|
Nghề nghiệp
|
Chỗ ở
|
Dân tộc
|
CHÚ THÍCH
|
1
2
|
Hoàng Đình An
Trịnh Hữu Biên
….
|
1918
1922
|
Nam
Nam
|
Công nhân
Thợ tiện
|
2 Lò Đúc
3 Lò Đúc
|
Kinh
Kinh
|
|
Tổng số người ứng cử
trong danh sách là……………………
Làm tại……………..
ngày……….. tháng……… năm 1960
|
TRƯỞNG BAN BẦU CỬ
ký tên và đóng dấu
|
MẪU
SỐ 3
Tỉnh, Khu ……………….
(hay là Thành phố)
***
Huyện (hay là Quận) ………………
***
Xã (hay là Khu phố) …………
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
BẦU
CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI KHÓA II
BIÊN BẢN KIỂM PHIẾU
Khu vực bỏ
phiếu…………………………………………...
Đơn vị bầu
cử……………………………..………………….
Ngày…… tháng……. năm
1960, hồi…… giờ……. sáng, Tổ bầu cử gồm gó:
Ông (hay là bà)
…………………………………………….. Tổ trưởng,
- ……………………………………………..
Tổ phó,
- ……………………………………………..
Thư ký,
- ……………………………………………..
Thư ký,
- ……………………………………………..
Tổ viên,
- ……………………………………………..
Tổ viên,
- ……………………………………………..
Tổ phó,
đã họp tại phòng bỏ
phiếu………….. thuộc đơn vị bầu cử ……… để phụ trách việc bầu cử đại biểu Quốc hội.
Đúng…… giờ…….. sáng,
Tổ trưởng Tổ bầu cử kiểm sát lại hòm phiếu, sau đó khóa và niêm phong hòm phiếu
lại, rồi mời các cử tri bắt đầu bỏ phiếu.
Đúng…. giờ tối, sau
khi cử tri cuối cùng có mặt tại trụ sở bỏ phiếu đã bỏ phiếu xong. Tổ trưởng Tổ
bầu cử tuyên bố cuộc bỏ phiếu kết thúc và cuộc kiểm phiếu bắt đầu ngay.
Trước khi mở hòm
phiếu (kể cả hòm phiếu phụ nếu có), Tổ trưởng Tổ bầu cử đã mời hai cử tri biết
chữ vào chứng kiến công việc kiểm phiếu là:
Ông (hay là bà)
……………………………….
và ông (hay là bà)
…………………………….
Kết quả cuộc bầu cử
như sau:
- Tổng số cử tri ở
danh sách của khu vực bỏ phiếu………. (có phân biệt nam nữ).
- Số cử tri đã đi
bầu……………. (có phân biệt nam nữ)
- Số phiếu hợp lệ:
………………
- Số phiếu không hợp
lệ:……….
- Số phiếu trắng tức
là phiếu mà tên họ tất cả các người ứng cử đều bị gạch xóa:
- Số phiếu bầu cho
mỗi người ứng cử:
Ông (hay là bà)………
được………. phiếu…….
Ông - ……….
được………. phiếu…….
Ông - ……….
được………. phiếu…….
……………………………………………………...
Biểu quyết về những
phiếu nghi ngờ:………….
Tóm tắt những việc đã
xảy ra, những khiếu nại trong việc bầu cử và cách giải quyết của Tổ bầu cử:
………………
Biên bản này lập
thành hai bản tại địa điểm, ngày tháng năm kể trên, vào hồi…. giờ và có đính
theo các đơn khiếu nại, tờ trình của Tổ bầu cử (nếu có).
Hai cử tri chứng
kiến kiểm phiếu
………………….
|
TỔ BẦU CỬ:
Tổ trưởng
Thư ký
|
MẪU
SỐ 4
Tỉnh, Khu ……………….
(hay là Thành phố)
***
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do -
Hạnh phúc
*******
|
BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC
HỘI KHÓA II
********
BIÊN
BẢN SƠ KẾT BẦU CỬ
Đơn vị bầu
cử……………………………………………….
Ngày…… tháng……. năm
1960, hồi…… giờ……. sáng, Ban bầu cử gồm gó:
Ông (hay là bà) ………………………………………Trưởng ban,
- ……………………………………….. Phó ban
- ……………………………………….. Thư ký
- ……………………………………….. Thư ký
- ………………………………..……….
đã họp tại..………….. để
làm biên bản sơ kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa II tại các khu vực bỏ
phiếu thuộc đơn vị bầu cử………….
Số đại biểu Quốc hội
ấn định cho đơn vị bầu cử………..
Số người ứng cử………..
(có phân biệt nam nữ)
Tổng số cử tri của
đơn vị bầu cử……..………. (có phân biệt nam nữ)
Số cử tri đã đi
bầu……………. (có phân biệt nam nữ)
Tỷ lệ so với tổng
số………………. (có phân biệt nam nữ)
Số phiếu hợp lệ:
……………..
Số phiếu không hợp
lệ:…………..
Số phiếu trắng tức là
phiếu mà tên họ tất cả các người ứng cử đều bị gạch xóa:….
Số phiếu bầu cho mỗi
người ứng cử:……….
Huyện, Quận, Châu,
hay là Thị xã
|
Số khu vực bỏ phiếu
|
SỐ PHIẾU BẦU CHO
MỖI NGƯỜI ỨNG CỬ
|
Ông hay là bà A[1]
|
Ông hay là bà B
|
Ông hay là bà C
|
Ông hay là bà D
|
Ông hay là bà Đ
|
Ông hay là bà E
|
Thị xã Hải Dương
Huyện Bình Giang
Huyện Cẩm Giàng
Huyện Gia Lộc
…..
|
19
49
71
74
|
|
|
|
|
|
|
Tổng cộng
|
|
|
|
|
|
|
|
Căn cứ vào kết quả
ghi trên, Ban bầu cử kết luận:
a) Số cử tri đã đi
bầu là quá nửa số cử tri ghi trong danh sách của đơn vị bầu cử (nếu số cử tri
đi bầu không được quá nửa số cử tri ghi trong danh sách của đơn vị bầu cử, thì
viết: "Vì số cử tri đi bầu không được quá nửa số cử tri ghi trong danh
sách cử tri của đơn vị bầu cử, nên cuộc bầu cử này không có giá trị và sẽ có
cuộc bầu lại").
b) Các ông bà có tên
sau đây được nhiều phiếu nhất và số phiếu đó đã quá nửa số phiếu hợp lệ, được
coi là trúng cử (nếu không ai được quá nửa số phiếu hợp lệ, thì viết: "Vì
không ai được quá nửa số phiếu hợp lệ để trúng cử, nên sẽ có cuộc bầu
lại"):
Ông (hay là
bà)……………….
- ………………..
- ………………..
c) Còn thiếu ………..
đại biểu sẽ bầu thêm cho đủ (nếu thiếu).
Tóm tắt những việc đã
xảy ra, những khiếu nại trong việc bầu cử và cách giải quyết của các Tổ bầu cử
…………………………………………………..
Biên bản này lập
thành 2 bản tại địa điểm, ngày tháng năm kể trên, và có đính theo các đơn khiếu
nại, tờ trình của Tổ bầu cử (nếu có).
|
TỔ BẦU CỬ:
Trưởng Ban
Phó Ban
Thư ký
Thư ký
|