BỘ
NỘI VỤ
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
04-NV
|
Hà
Nội, ngày 06 tháng 02 năm 1964
|
THÔNG TƯ
VỀ VIỆC CẢI TIẾN CÔNG TÁC VÀ CHẤN CHỈNH TỔ CHỨC Ở CÁC THÀNH
PHỐ THUỘC TỈNH VÀ THỊ XÃ
Kính
gửi: Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố, tỉnh,
Thành phố thuộc tỉnh, thị
xã là những trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của địa phương; một số thành
phố thuộc tỉnh, thị xã là những khu công nghiệp tập trung, khu vực nghỉ mát.
Mấy năm nay, đi đôi với những thắng
lợi của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, các
thành phố thuộc tỉnh, thị xã ở miền Bắc nước ta có những biến đổi to lớn và có
một vị trí ngày càng quan trọng.
Hiện nay việc giữ gìn trật tự trị
an, quản lý nhân khẩu, xây dựng các sự nghiệp phục vụ lợi ích công cộng, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở thành phố thuộc tỉnh, thị xã
là những công tác rất nặng nề và phức tạp.
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân
và Ủy ban hành chính các cấp ban hành ngày 10-11-1962 đã quy định nhiệm vụ, quyền
hạn của Ủy ban hành chính thành phố thuộc tỉnh, thị xã và nói rõ thành phố thuộc
tỉnh và thị xã là một cấp có kế hoạch và ngân sách.
Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị
số 26-TTg ngày 19-4-1963 quy định nguyên tắc thành lập thành phố thuộc tỉnh, thị
xã, thị trấn. Bộ Nội vụ đã có Thông tư số 12-NV ngày 15-5-1963 hướng dẫn về việc
thi hành chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Tài chính đã có Thông tư số
226 ngày 06-6-1963 hướng dẫn việc phân cấp quản lý tài chính và ngân sách cho
thành phố thuộc tỉnh và thị xã.
Nhưng đến nay, nhiều thành phố
thuộc tỉnh, thị xã vẫn chưa có ngân sách và chưa được giao nhiệm vụ, quyền hạn
như luật đã quy định. Việc phân cấp quản lý cho thành phố thuộc tỉnh và thị xã
thực hiện còn chậm. Một số việc như quản lý các bệnh xá, các trường phổ thông cấp
II, các cửa hàng sách báo, các hợp tác xã thủ công nghiệp v.v... lẽ ra có thể
giao cho thành phố thuộc tỉnh, thị xã quản lý có lợi hơn, thì hiện nay còn do tỉnh
trực tiếp nắm cả.
Nhiều công tác quan trọng và cấp
thiết của các thành phố thuộc tỉnh, thị xã, ở nhiều nơi làm chưa tốt, như chưa
chú ý đến việc quản lý tình hình nhân dân và việc quản lý nhân khẩu nên đã
không nắm vững được dân số và để cho nhân khẩu thành thị tăng một cách tự phát
và quá nhanh; hoặc chưa quan tâm đúng mức đến việc giữ gìn vệ sinh chung và
chăm lo đến những tiện nghi tối cần thiết cho đời sống của nhân dân như đường
sá, cống rãnh còn để thiếu vệ sinh, nước phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt chưa đủ,
các nhà vệ sinh công cộng không có hoặc còn thiếu v.v...
Có nơi lại chú trọng lãnh đạo
nông nghiệp ở ngoại thành và coi nhẹ công tác ở nội thành.
Ngoài ra, về tình hình tổ chức bộ
máy của thành phố thuộc tỉnh, thị xã cũng có nhiều vấn đề tồn tại, Có nơi bộ
máy giúp việc Ủy ban hành chính thành phố thuộc tỉnh, thị xã chưa được kiện
toàn đúng mức. Trái lại, ở nhiều nơi khác, bộ máy giúp việc Ủy ban hành chính
thành phố thuộc tỉnh, thị xã lại cồng kềnh và phân tán và nhất là hiện nay còn
một số thị xã, thành phố thuộc tỉnh vẫn duy trì các Ủy ban hành chính hoặc các
Ban hành chính khu phố là những tổ chức trung gian không cần thiết và trái với
luật tổ chức hiện hành.
Để khắc phục những hiện tượng
nói trên, nhằm bước đầu cải tiến công tác và chấn chỉnh tổ chức ở các thành phố
thuộc tỉnh, thị xã, các Ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh cần chỉ đạo thực
hiện một số việc cần thiết dưới đây:
1. Làm tốt
việc giữ gìn trật tự trị an, quản ký nhân khẩu, phòng cháy chữa cháy. Trước hết
cần có kế hoạch và biện pháp tăng cường việc nắm tình hình nhân dân và kịp thời
chấm dứt tình trạng dân số ở thành thị tăng một cách tự phát và quá nhanh, gây
nên nhiều khó khăn, trở ngại cho việc quản lý và cung cấp lương thực, thực phẩm
của Nhà nước. Để làm tốt công tác này, cần có sự phối hợp chặt chẽ và phân rõ
trách nhiệm giữa các cơ quan lao động, lương thực, công an của tỉnh với các tổ
chức thuộc Ủy ban hành chính thành phố thuộc tỉnh, thị xã.
2. Làm tốt
việc phục vụ lợi ích công cộng. Trước hết cần phải quan tâm đúng mức đến việc
giữ gìn vệ sinh chung, bảo vệ sức khỏe, chăm lo đến những vấn đề có liên quan đến
đời sống của nhân dân thành thị như: giải quyết tốt vấn đề nước ăn, vấn đề phân
rác, xây dựng đường sá, cống rãnh… Đối với những công trình phục vụ lợi ích
công cộng khác thì tùy theo yêu cầu và điều kiện thực tế của địa phương mà có kế
hoạch thực hiện cho thích hợp.
Đối với những thành phố thuộc tỉnh
và thị xã lớn có công nghiệp tập trung, càng phải coi trọng việc thực hiện các
công tác nói trên.
3. Tiến
hành khẩn trương việc phân cấp quản lý cho thành phố thuộc tỉnh và thị xã. Về vấn
đề này, tùy tình hình đặc điểm của mỗi địa phương mà tiến hành phân cấp quản lý
cho thích hợp. Nhưng trước hết, phải phân cấp quản lý tài chính cho thành phố
thuộc tỉnh và thị xã để có ngân sách riêng như luật đã quy định, đồng thời cần
mạnh dạn phân cấp cho thành phố thuộc tỉnh, thị xã quản lý những công tác và
các cơ sở kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế v.v... có quan hệ trực tiếp đến lợi
ích công cộng và đời sống nhân dân ở thành phố, thị xã.
Đối với những thành phố thuộc tỉnh
và thị xã ở xa tỉnh lỵ thì việc phân cấp cần được mở rộng hơn so với thành phố
thuộc tỉnh, thị xã là tỉnh lỵ. Đối với những thị xã nhỏ là tỉnh lỵ dân số ít,
công việc không phức tạp lắm thì tỉnh vẫn có thể trực tiếp đảm nhiệm một số việc
của thị xã nếu xét có lợi hơn là phân cấp cho thị xã.
4. Đi
đôi với việc phân cấp quản lý cho thành phố thuộc tỉnh, thị xã cần tiến hành kiện
toàn tổ chức bộ máy, cải tiến lề lối làm việc của thành phố thuộc tỉnh, thị xã
cho phù hợp.
Cần phải tổ chức bộ máy của
thành phố thuộc tỉnh, thị xã gọn, mạnh, có hiệu lực thực sự, đảm bảo thực hiện
đầy đủ những nhiệm vụ được giao.
Ở các thành phố thuộc tỉnh, thị
xã ngoài các cơ quan chuyên môn hiện nay cần thiết phải đặt ra như cơ quan
lương thực, bưu điện, truyền thanh, ngân hàng, thị đội, công an, tòa án, kiểm
sát…, các Ủy ban hành chính thành phố thuộc tỉnh, thị xã sẽ tổ chức những phòng
chuyên môn trực thuộc Ủy ban phụ trách những công tác y tế, tài chính, công
thương nghiệp. Ở các thành phố thuộc tỉnh, thị xã lớn, nếu xét thật cần thết
thì có thể tổ chức thêm những phòng chuyên môn phụ trách những công tác kiến
trúc, giao thông, lao động, văn hóa, thông tin. Đối với những công tác khác,
nói chung không nên tổ chức những phòng chuyên môn mà để các bộ phận trực thuộc
Ủy ban hành chính phụ trách.
Cần tăng cường cán bộ có chất lượng
cho các Ủy ban hành chính thành phố thuộc tỉnh, thị xã lớn và cho các cơ quan,
các bộ phận quan trọng của Ủy ban hành chính thành phố thuộc tỉnh, thị xã.
Về lề lối làm việc, cần phải
tăng cường việc đi sát cơ sở, giảm bớt giấy tờ, hội họp làm cho chính quyền
thành phố thuộc tỉnh, thị xã thực sự là cấp chính quyền cơ sở để mọi mặt công
tác lãnh đạo được thống nhất tập trung và kịp thời.
5. Bãi bỏ
các Ủy ban hành chính khu phố hoặc các Ban hành chính khu phố do Ủy ban hành
chính thành phố thuộc tỉnh, thị xã đã chỉ định trước đây mà hiện nay còn duy
trì trái với luật tổ chức hiện hành, đồng thời để thay thế cho các tổ chức
không còn thích hợp nói trên, cần thống nhất thành lập các Ban đại biểu dân phố
ở các khu vực dân cư trong phạm vi nội thành, nội thị theo như điều lệ mẫu về tổ
chức Ban đại biểu dân phố đính kèm.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ
Ung Văn Khiêm
|
ĐIỀU LỆ MẪU
VỀ TỔ CHỨC BAN ĐẠI BIỂU DÂN PHỐ Ở THÀNH PHỐ VÀ THỊ XÃ
(Ban hành kèm theo Thông tư số 04-NV ngày 06 tháng 2 năm 1964)
Để tăng cường sự liên hệ giữa
chính quyền với nhân dân, giúp cho chính quyền nắm được tình hình và nguyện vọng
của nhân dân để đẩy mạnh mọi mặt công tác của thành phố, thị xã, đồng thời để
phát huy tính tích cực và tính sáng tạo của nhân dân tham gia vào việc quản lý
Nhà nước và giải quyết các công việc có liên quan đến lợi ích của nhân dân ở
thành phố, thị xã, nay tổ chức các Ban đại biểu dân phố ở thành phố, thị xã như
sau.
Điều 1. - Ở
nội thành các thành phố thuộc tỉnh, nội thị các thị xã và ở các khu phố có Hội
đồng nhân dân và Ủy ban hành chính, sẽ căn cứ vào khu vực cư trú của nhân dân mà
tổ chức các Ban đại biểu dân phố.
Ban đại biểu dân phố hoạt động
dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Ủy ban hành chính thành phố thuộc tỉnh, thị xã,
khu phố.
Nhiệm kỳ của Ban đại biểu dân phố
là hai năm.
Điều 2. – Trong
phạm vi khu vực của mình, Ban đại biểu dân phố có nhiệm vụ, quyền hạn như sau:
1. Vận động nhân dân thực hiện
nhiệm vụ của mình đối với Nhà nước, tuân theo pháp luật, thi hành những quy định
về trật tự trị an và vệ sinh chung của thành phố, thị xã.
2. Cùng nhân dân bàn bạc, tổ chức
làm các công việc về văn hóa, xã hội, cải thiện sinh hoạt và tương trợ lẫn
nhau.
3. Phản ánh tình hình và ý kiến
nguyện vọng của nhân dân với Ủy ban hành chính thành phố thuộc tỉnh, thị xã,
khu phố.
4. Dàn xếp các việc xích mích
trong nội bộ nhân dân.
5. Giúp Ủy ban hành chính thành
phố thuộc tỉnh, thị xã, khu phố trong một số việc như phổ biến chủ trương,
chính sách của Nhà nước, phân phối phiếu mua hàng… giúp cán bộ các ngành đến
liên hệ công tác.
Điều 3. – Ban
đại biểu dân phố tổ chức như sau:
- Căn cứ theo khu vực cư trú của
nhân dân khoảng từ 100 hộ đến 300 hộ, (trường hợp đặc biệt có thể nhiều hơn,
nhưng không quá 400 hộ) có một Ban đại biểu dân phố, và khoảng từ 15 hộ đến 50
hộ có một tổ dân phố;
- Ban đại biểu dân phố do đại diện
các hộ trong mỗi khu vực cư trú bầu ra;
- Số thành viên của mỗi Ban đại
biểu dân phố do Ủy ban hành chính thành phố thuộc tỉnh, thị xã, khu phố quy định.
Ban đại biểu dân phố gồm có: một
trưởng ban, một hay hai phó ban, một số ủy viên trực tiếp làm tổ trưởng tổ dân
phố và từ ba đến năm ủy viên phụ trách một số công việc của Ban.
- Trưởng Ban đại biểu dân phố phụ
trách chung công tác của Ban. Phó Ban đại biểu dân phố giúp trưởng ban trong việc
phụ trách chung và trực tiếp làm một số công việc của Ban;
- Mỗi thành viên của Ban đại biểu
dân phố chịu trách nhiệm chung về toàn bộ công tác của Ban và chịu trách nhiệm
riêng về phần công tác của mình.
Điều 4. - Việc
bầu cử Ban đại biểu dân phố tiến hành như sau:
- Căn cứ theo sự quy định của Ủy
ban hành chính thành phố thuộc tỉnh, thị xã, khu phố, mỗi tổ dân phố bầu ra bằng
cách bỏ phiếu kín một số đại biểu dân phố. Việc bầu cử này phải có quá nửa tổng
số đại diện các hộ trong mỗi tổ dân phố tham gia thì mới có giá trị;
- Những người tham gia bầu cử, ứng
cử Ban đại biểu dân phố phải là người đại diện các hộ, có đủ 18 tuổi trở lên,
không bị tòa án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử và không phải là người mất
trí;
- Các đại biểu dân phố được cán
bộ trong các tổ dân phố bầu ra họp lại thành Ban đại biểu dân phố và cử ra trưởng,
phó ban và các ủy viên của Ban.
Điều 5. – Trong
nhiệm kỳ của Ban đại biểu dân phố, khi khuyết một thành viên thì Ủy ban hành
chính thành phố thuộc tỉnh, thị xã, khu phố quyết định việc bầu cử bổ sung.
Điều 6. – Khi
tiến hành công tác, Ban đại biểu dân phố phải dựa vào tính tích cực và sự tự
nguyện của quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, tuyệt đối không được
dùng mệnh lệnh cưỡng ép và không có thẩm quyền về hành chính; đồng thời phải
tranh thủ sự hướng dẫn của chính quyền và phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể quần
chúng, các Ban bảo vệ dân phố và các hợp tác xã.
Điều 7. – Ban
đại biểu dân phố họp mỗi tháng ít nhất một lần để bàn bạc công tác.
Ban đại biểu dân phố sáu tháng một
lần phải báo cáo công tác trước nhân dân trong khu vự của mình.
Điều 8. – Trong
khi làm công việc của Ban đại biểu dân phố, các thành viên của Ban không thoát
ly sản xuất hay công tác chuyên môn của mình. Ủy ban hành chính thành phố thuộc
tỉnh, thị xã, khu phố phải định chế độ làm việc, hội họp thích hợp với điều kiện
công tác của Ban đại biểu dân phố, đồng thời phải chú ý bồi dưỡng về nhiệm vụ,
quyền hạn, lề lối làm việc và các chủ trương, chính sách, chế độ, thể lệ của
Nhà nước cho các Ban đại biểu dân phố.
Điều 9. – Ban
đại biểu dân phố và các thành viên của Ban, nếu có thành tích công tác, sẽ được
Ủy ban hành chính thành phố thuộc tỉnh, thị xã, khu phố hoặc cơ quan Nhà nước cấp
trên khen thưởng, nếu phạm sai lầm, khuyết điểm sẽ tùy theo trường hợp mà bị
phê bình, cảnh cáo hoặc đưa ra tổ dân phố bãi miễn.