BỘ
THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
03-TBXH
|
Hà
Nội, ngày 17 tháng 1 năm 1981
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI SỐ 3-TBXH NGÀY 17-1-1981 HƯỚNG
DẪN THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH SỐ 301-CP NGÀY 20-9-1980 CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ BỔ SUNG
TIÊU CHUẨN XÁC NHẬN LIỆT SĨ, THƯƠNG BINH; BỔ SUNG CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI THƯƠNG
BINH, BỆNH BINH, GIA ĐÌNH LIỆT SĨ MỚI BỊ THƯƠNG HOẶC BỊ HY SINH TỪ NGÀY 1 - 5 -
1975 TRỞ ĐI
Ngày 20 - 9 - 1980, Hội đồng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 301-CP bổ sung chính sách đối với những trường
hợp hy sinh hoặc bị thương từ ngày 1 - 5 - 1975 trở đi, nội dung gồm 4 vấn đề:
1. Về tiêu chuẩn để xác nhận là
liệt sĩ, thương binh.
2. Về chính sách đối với thương
binh và gia đình liệt sĩ.
3. Về chính sách đối với bệnh
binh.
4. Về chính sách đối với gia
đình của người bị mất tích.
Bộ Thương binh và xã hội giải
thích và hướng dẫn thi hành như sau.
I. VỀ TIÊU
CHUẨN ĐỂ XÁC NHẬN LÀ LIỆT SĨ, THƯƠNG BINH
Để phù hợp với tình hình và nhiệm
vụ cách mạng trong giai đoạn mới, điều 1 của Quyết định số 301-CP bổ sung tiêu
chuẩn để xác nhận là liệt sĩ, thương binh đối với những trường hợp hy sinh hoặc
bị thương từ ngày 1 tháng 5 năm 1975 trở đi như sau:
"Những quân nhân, công
nhân, viên chức, thanh niên xung phong, dân công... trong khi làm nhiệm vụ bảo
vệ và xây dựng Tổ quốc, hoặc làm nhiệm vụ quốc tế đã tỏ rõ tinh thần phấn đấu
hoàn thành tốt nhiệm vụ, có ý thức tổ chức kỷ luật, nếu bị thương hoặc chết (từ
ngày 1-5-1975 trở về sau) trong những trường hợp sau đây thì được xét để xác nhận
là liệt sĩ, thương binh hoặc được hưởng chính sách như thương binh:
- Bị thương hoặc ốm đau, tai nạn
dẫn đến bị thương hoặc chết trong khi làm nhiệm vụ ở vùng có chiến sự, vùng tiếp
giáp với địch, vùng núi, rẻo cao và hải đảo;
- Bị ốm đau, tai nạn dẫn đến bị
thương hoặc chết trong khi làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào, Cam Pu Chia hoặc nước
khác;
- Bị thương hoặc chết vì đã dũng
cảm và tự nguyện làm những công việc nguy hiểm nhằm phục vụ sản xuất và xây dựng,
phục vụ quốc phòng và an ninh, xứng đáng nêu gương cho mọi người học tập".
Bộ hướng dẫn sau đây:
Người chết hoặc bị thương (từ
ngày 1-5-1975 trở về sau) do ốm đau, tai nạn trong khi làm nhiệm vụ nói ở điểm
1, 2, 3 dưới đây, được xét để xác nhận là liệt sĩ, thương binh hoặc người được
hưởng chính sách như thương binh phải là:
- Người được đơn vị quân đội, cơ
quan Nhà nước, cấp uỷ hoặc chính quyền địa phương giao nhiệm vụ (sau đây gọi tắt
là được tổ chức giao nhiệm vụ);
- Người đã luôn luôn phấn đấu để
hoàn thành tốt nhiệm vụ, có ý thức tổ chức, kỷ luật, được đồng đội và nhân dân
tin yêu.
1. Làm nhiệm vụ ở vùng có chiến
sự, vùng tiếp giáp với địch, vùng núi, rẻo cao và hải đảo.
- Được coi là làm nhiệm vụ ở
vùng có chiến sự là những trường hợp được tổ chức giao nhiệm vụ hoạt động trong
những vùng xảy ra các trận chiến đấu giữa ta và địch. Hoạt động ở đây dể xảy ra
thương vong, thường xuyên căng thẳng, ác liệt; sinh hoạt thường thiếu thốn,
gian khổ, dễ sinh ốm đau, bệnh tật.
- Được coi là làm nhiệm vụ ở
vùng tiếp giáp với địch là những trường hợp được tổ chức giao nhiệm vụ hoạt động
tại những nơi ta và địch giáp nhau, đối địch nhau và chiến sự có thể xảy ra bất
kỳ lúc nào. Ở đây, sẵn sàng chiến đấu là nhiệm vụ hàng đầu; mọi sinh hoạt đều
trong điều kiện thời chiến vì phải thường xuyên đối phó với những hoạt động của
địch như khiêu khích, xâm lấn, pháo kích, tung thám báo, biệt kích, ám sát, bắt
cóc, phá hoại, v.v... Hoạt động ở đây phải sống trong điều kiện căng thẳng và
có nguy hiểm bất thường; sinh hoạt thường thiếu thốn, gian khổ, dễ sinh ốm đau,
bệnh tật.
- Được coi là làm nhiệm vụ ở
vùng núi, rẻo cao và hải đảo là những trường hợp được tổ chức giao nhiệm vụ hoạt
động ở những vùng hiểm trở, sinh hoạt quá thiếu thốn, kham khổ (thiếu lương thực,
thực phẩm, thiếu dinh dưỡng...); thời tiết, khí hậu khắc nghiệt (nóng, rét, mưa
, bão, gió thất thường...); có nhiều yếu tố phát sinh bệnh tật (nhiều muỗi độc
và các loại ký sinh trùng gây bệnh hiểm nghèo...); điều kiện phòng bệnh, chữa bệnh
rất hạn chế (thiếu thuốc men, xa bệnh viện...); việc đi lại, vận chuyển, tiếp tế
khó khăn, chậm trễ (thiếu đường sá, vận chuyển chủ yếu là đi bộ, đi thuyền và bằng
phương tiện thô sơ...).
Những người được tổ chức giao
nhiệm vụ hoạt động ở vùng có chiến sự, vùng tiếp giáp với địch, vùng núi, rẻo
cao và hải đảo có các điều kiện nói trên, bị thương hoặc ốm đau, tai nạn, do
thiếu điều kiện nên không cứu chữa kịp, dẫn đến chết, bị thương hoặc để lại các
di chứng tật nguyền thì được xét để xác nhận là liệt sĩ, thương binh hoặc người
được hưởng chính sách như thương binh.
Không xét để xác nhận là liệt
sĩ, thương binh hoặc người được hưởng chính sách như thương binh, các trường hợp
dưới đây:
a) Người không được tổ chức giao
nhiệm vụ hoạt động tại các vùng nói trên mà tự ý ở lại hoặc tự ý đến nơi đó rồi
bị chết hoặc bị thương.
b) Người thiếu ý chí, trốn tránh
nhiệm vụ, tự ý rời bỏ vị trí chiến đấu, vị trí công tác rồi bị địch sát thương
hoặc bị ốm đau, tai nạn mà chết hoặc bị thương.
c) Người chết hoặc bị thương do ốm
đau, tai nạn trong khi làm nhiệm vụ nhưng đã vi phạm nặng kỷ luật dân vận và
chính sách dân tộc, gây ảnh hưởng xấu trong nhân dân địa phương.
d) Trường hợp chết hoặc bị
thương do ốm đau, tai nạn nhưng nguyên nhân không phải do điều kiện kham khổ,
khắc nghiệt, căng thẳng của môi trường mà người ấy hoạt động gây nên.
2. Làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào
Cam-pu-chia hoặc nước khác.
Làm nhiệm vụ quốc tế nói ở đây
là những người được tổ chức phân công đi làm nhiệm vụ giúp đỡ cách mạng Lào,
Cam-pu-chia hoặc nước khác. Trong khi làm nhiệm vụ ở Lào, Cam-pu-chia hoặc làm
các nhiệm vụ khó khăn, gian khổ nguy hiểm ở nước khác mà bị ốm đau, tai nạn tại
các nước ấy rồi chết hoặc bị thương thì được xét để xác nhận là liệt sĩ, thương
binh hoặc người được hưởng chính sách như thương binh.
Không xét để xác nhận là liệt
sĩ, thương binh hoặc người được hưởng chính sách như thương binh các trường hợp
dưới đây:
a) Người chết hoặc bị thương do ốm
đau, tai nạn trong khi làm nhiệm vụ quốc tế nhưng đã vi phạm đoàn kết quốc tế,
vi phạm kỷ luật, thiếu phẩm chất của người cách mạng, gây ảnh hưởng xấu đối với
bạn, với nhân dân nước bạn và đồng đội.
b) Những người đi công tác ở nước
ngoài không phải với nhiệm vụ giúp đỡ cách mạng Lào, Cam-pu-chia hoặc nước khác
nói trên và những người đi học, đi lao động, đi tham quan, đi an dưỡng, đi chữa
bệnh, đi thăm viếng hữu nghị... ở nước ngoài không thuộc diện hưởng chế độ theo
quyết định số 301-CP.
3. Dũng cảm và tự nguyện làm
những công việc nguy hiểm nhằm phục vụ sản xuất và xây dựng, phục vụ quốc phòng
và an ninh, xứng đáng nêu gương cho mọi người học tập.
Trong nhiệm vụ sản xuất và xây dựng,
có một số công việc đòi hỏi lòng dũng cảm và tự nguyện như tiến hành các cuộc
khảo sát, thám hiểm, làm các thí nghiệm khoa học, có nhiều yếu tố nguy hiểm ngẫu
nhiên; hoặc đôi khi xảy ra tình huống hiểm nghèo gây nguy cơ làm ngừng trệ hoặc
huỷ hoại sản xuất, ảnh hưởng đến kinh tế và đời sống, đòi hỏi phải có lòng dũng
cảm quên mình để ngăn chặn tác hại xấu xảy ra.
Trong nhiệm vụ quốc phòng và an
ninh chống các âm mưu phá hoại của kẻ thù, chống các hiện tượng tiêu cực trong
xã hội, nhiều trường hợp đòi hỏi sự dũng cảm hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ
(như trấn áp bạo loạn, ngăn chặn bọn vượt biên trái phép, bắt giữ bọn lưu manh,
bọn làm ăn phi pháp,v.v...).
Trước các công việc nguy hiểm ấy,
những người đã dũng cảm, tự nguyện quên mình vì nhiệm vụ, nêu gương sáng cho mọi
người học tập và do làm các công việc nguy hiểm ấy mà chết hoặc bị thương thì
được xét để xác nhận là liệt sĩ, thương binh hoặc người được hưởng chính sách
như thương binh.
Không xét xác nhận là liệt sĩ,
thương binh hoặc người được hưởng chính sách như thương binh những trường hợp
làm các công việc nguy hiểm trong điều kiện có đủ thời gian và phương tiện
phòng hộ lao động, nhưng vì tự do vô tổ chức không chấp hành đẩy đủ quy tắc bảo
hộ lao động và quy trình sản xuất, nêu gương xấu về tính tuỳ tiện đối với kỷ luật
lao động, rồi bị tai nạn chết người hoặc bị thương.
II. VỀ CHÍNH
SÁCH ĐỐI VỚI THƯƠNG BINH, NGƯỜI ĐƯỢC HƯỞNG CHÍNH SÁCH NHƯ THƯƠNG BINH VÀ GIA
ĐÌNH LIỆT SĨ
1. Điều 2 của quyết định: "
Những cán bộ xã không giữ các chực vụ chủ chốt, những công dân không ở trong lực
lượng dân quân tự vệ nếu bị thương được hưởng chính sách như thương binh hoặc
hy sinh được xác nhận là liệt sĩ thì cũng được hưởng chế độ đãi ngộ như đối với
dân quân, tự vệ bị thương hoặc hy sinh trong chiến đấu"
Nay nói rõ thêm như sau:
a) Chế độ được hưởng:
- Những cán bộ xã không giữ các
chực vụ chủ chốt hoặc những công dân không ở trong lực lượng dân quân tự vệ nếu
bị thương từ ngày 1-5-1975 trở về sau trong các trường hợp quy định được hưởng
chính sách như thương binh thì được hưởng chế độ trợ cấp thương tật và các chế
độ đãi ngộ khác như đối với dân quân tự vệ không phải là công nhân viên chức bị
thương trong chiến đấu theo quy định trước đây ( tức là được hưởng chính sách
như thương binh), và được gọi là cán bộ xã (hoặc công dân) bị thương được hưởng
chính sách như thương binh.
- Nếu hy sinh từ ngày 1-5-1975
trở về sau, được xác nhận là liệt sĩ thì thân nhân chủ yếu của người đó được hưởng
các chính sách, chế độ như thân nhân chủ yếu của liệt sĩ là dân quân, tự vệ
không phải là công nhân, viên chức.
b) Cách giải quyết đối với những
trường hợp bị thương hoặc hy sinh từ ngày 1-5-1975 đến trước ngày ban hành Quyết
định số 301-CP ngày 20-9-1980.
- Người bị thương đã được xếp hạng
thương tật và đã giải quyết trợ cấp 1 lần thì nay được xác nhận là cán bộ xã
(hoặc công dân) bị thương, được hưởng chính sách như thương binh và được hưởng
trợ cấp thương tật hàng tháng từ ngày 20-9-1980 trở về sau, không phải hoàn lại
số tiền trợ cấp 1 lần đã lĩnh.
- Người hy sinh đã đựơc xác nhận
là liệt sĩ và gia đình đã được cấp tiền tuất 1 lần, nay nếu thân nhân có đủ điều
kiện hưởng tuất hàng tháng thì được hưởng tiền tuất hàng tháng từ ngày
20-9-1980 trở về sau, không phải hoàn lại số tiền tuất 1 lần đã lĩnh nhưng cũng
không được hưởng khoản trợ cấp lần đầu bằng 90 đồng theo quy định tại điều 4 của
Quyết định số 301-CP sẽ nói dưới đây.
- Trường hợp bị thương (đã ra viện
đi nhận công tác hoặc về địa phương trước ngày 20-9-1980), hoặc hy sinh, đủ
tiêu chuẩn, nay mới xét và xác nhận thì được hưởng chế độ trợ cấp theo quy định
mới từ ngày 20-9-1980 trở về sau. (Riêng gia đình liệt sĩ không hưởng khoản trợ
cấp lần đầu bằng 90 đồng).
2. Điều 4 của quyết định: "
Đối với các liệt sĩ là người thuộc diện không có tiền lương hoặc sinh hoạt phí,
thì ngoài khoản trợ cấp tiền tuất hàng tháng như đối với gia đình liệt sĩ là
cán bộ, chiến sĩ có tiền lương hoặc sinh hoạt phí, còn được hưởng khoản trợ cấp
lần đầu là 90 đồng.
Cụ thể là:
- Các liệt sĩ là người thuộc diện
không có tiền lương hoặc sinh hoạt phí nói ở đây gồm các liệt sĩ là cán bộ
thôn, xã, là dân công hoặc công dân; là dân quân, tự vệ (không phải là công
nhân, viên chức), hy sinh từ ngày 1-5-1975 trở về sau.
- Trợ cấp tiền tuất hàng tháng
mà gia đình các liệt sĩ này được hưởng theo quy định cũ là khoản trợ cấp định
xuất tuỳ theo số lượng thân nhân của liệt sĩ. Nay gia đình các liệt sĩ này được
hưởng thêm khoản 10% vì là liệt sĩ như đối với gia đình các liệt sĩ có tiền
lương hoặc sinh hoạt phí và khoản trợ cấp lần đầu bằng 90 đồng.
- Trường hợp liệt sĩ là người
thuộc diện không có tiền lương hoặc sinh hoạt phí, hy sinh từ ngày 1-5-1975 đến
trước ngày ban hành Quyết định số 301-CP, nếu gia đình trước đây mới chỉ được
hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng theo định xuất thì nay đưọc hưởng thêm khoản
trợ cấp lần đầu bằng 90 đồng và được điều chỉnh khoản 10% vì là liệt sĩ từ ngày
20-9-1980 trở về sau.
3. Điều 3 của quyết định:"
Những quân nhân, công nhân, viên chức về hưu hoặc nghỉ việc vì mất sức lao động
và những thương binh, bệnh binh về địa phương (đang hưởng trợ cấp hàng tháng) nếu
bị thương hoặc hy sinh được xác nhận là thương binh, người được hưởng chính
sách như thương binh hoặc là liệt sĩ thì bản thân được hưởng chế độ trợ cấp
thương tật và gia đình được hưởng chế độ trợ cấp tiền tuất như chế độ đối với
cán bộ, chiến sĩ tại chức và được căn cứ vào mức tiền lương hoặc sinh hoạt phí
trước khi nghỉ việc hoặc trước khi về địa phương để tính trợ cấp".
Nay giải thích cụ thể như sau:
a) Đối tượng được hưởng chế độ
theo Điều 3 của Quyết định số 301-CP là những người đang hưởng trợ cấp hưu trí,
trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp thương tật hoặc trợ cấp bệnh binh hàng tháng,
hy sinh hoặc bị thương từ ngày 1-5-1975 trở về sau.
Những người không còn được hưởng
trợ cấp hàng tháng vì đã hết hạn, vì sức khoẻ đã hồi phục hoặc vì lý do nào đó
đã không còn quyền được hưởng trợ cấp thì không thuộc diện giải quyết chế độ
theo quy định này.
b) Chế độ được hưởng:
- Nếu bị thương, xét đủ tiêu chuẩn
thì được xác nhận là người được hưởng chính sách như thương binh; nếu đã là
thương binh mà lại bị thương, xét đủ tiêu chuẩn thì được xếp hạng lại và vẫn
xác nhận là thương binh. Chế độ trợ cấp thương tật được hưởng như sau:
Đối với người về hưu, về nghỉ việc
vì mất sức lao động và bệnh binh, thì ngoài trợ cấp hưu trí, trợ cấp mất sức
lao động hoặc trợ cấp bệnh binh hàng tháng, được hưởng mức trợ cấp thương tật
như khi còn tại chức. Trường hợp sau này vì lý do hết thời hạn hoặc vì sức khoẻ
hồi phục, không còn được hưởng trợ cấp mất sức lao động hoặc trợ cấp bệnh binh
nữa thì sẽ được hưởng mức trợ cấp thương tật khi về gia đình.
Đối với thương binh (không thuộc
diện hưởng chế độ hưu trí, chế độ mất sức lao động hoặc bệnh binh) thì được hưởng
mức trợ cấp thương tật khi về gia đình.
- Nếu hy sinh được xác nhận là
liệt sĩ thì gia đình được hưởng trợ cấp tiền tuất 1 lần hoặc trợ cấp tiền tuất
hàng tháng tuỳ theo điều kiện của các thân nhân chủ yếu của liệt sĩ. Cách tính
các khoản trợ cấp như đối với cán bộ, chiến sĩ tại chức.
- Căn cứ để tính trợ cấp thương
tật hoặc trợ cấp tiền tuất là mức tiền lương hoặc sinh hoạt phí của người đó
trước khi nghỉ việc hoặc về địa phương. Thời gian công tác liên tục để tính trợ
cấp, căn cứ vào thời gian công tác liên tục đã được xác nhận và ghi trong sổ trợ
cấp hưu trí, sổ trợ cấp mất sức lao động hoặc trong quyết định phục viên.
c) Những đối tượng nói trên, nếu
bị thương hoặc hy sinh từ ngày 1-5-1975 đến trước ngày ban hành Quyết định số
301-CP thì được hưởng chế độ mới từ ngày 20-9-1980 trở về sau.
4. Điều 5 của quyết định:
"Những quân nhân phục viên chưa hưởng hết trợ cấp phục viên hàng tháng, nếu
hy sinh được xác nhận là liệt sĩ thì gia đình được nhận trong một lần số tiền
trợ cấp phục viên còn lại".
Cụ thể là:
Quân nhân phục viên từ ngày
1-5-1975 trở về sau, được xác nhận là liệt sĩ, nếu chưa hưởng hết trợ cấp phục
viên hàng tháng, thì ngoài các chế độ đối với gia đình liệt sĩ, gia đình người
đó còn được nhận gọn trong một lần số tiền trợ cấp phục viên hàng tháng còn lại.
Trường hợp quân nhân phục viên
được hưởng trợ cấp phục viên hàng tháng cho đến khi chết thì tính như sau:
- Nếu tính đến ngày hy sinh người
đó hưởng trợ cấp phục viên hàng tháng chưa được một nửa thời gian phục vụ quân
đội của mình, thì được lấy một nửa thời gian phục vụ quân đội trừ đi thời gian
đã hưởng trợ cấp phục viên hàng tháng, để tính số tiền trợ cấp phục viên của số
tháng còn lại và trả gọn một lần cho gia đình.
- Nếu tính đến ngày hy sinh người
đó hưởng trợ cấp phục viên hàng tháng đã bằng hoặc đã quá nửa thời gian phục vụ
quân đội của mình, thì gia đình không được hưởng khoản trợ cấp phục viên này nữa.
5. Điều 7 của Quyết định số
301-CP thay cho đoạn cuổi điểm 3, phần III của Quyết định số 185-CP ngày
25-9-1969 của Hội đồng Chính phủ như sau:
"Đối với gia đình các liệt
sĩ là người hưởng chế độ tiền lương hoặc sinh hoạt phí, nếu trợ cấp tiền tuất
hàng tháng thấp hơn khoản còn lại của tiền lương hoặc sinh hoạt phí (sau khi đã
trừ phần dành cho sinh hoạt của bản thân) thì gia đình được tiếp tục hưởng khoản
còn lại đó trong thời gian một năm kể từ ngày liệt sĩ hy sinh, sau đó mới chuyển
sang hưởng chế độ tiền tuất".
Thực hiện như sau:
a) Quy định này áp dụng đối với
gia đình của các liệt sĩ mà trước khi hy sinh đang hưởng chế độ tiền lương hoặc
sinh hoạt phí (liệt sĩ là quân nhân, công nhân, viên chức, thanh niên xung
phong) hy sinh từ ngày 1-5-1975 trở về sau.
b) Cách tính khoản còn lại của
tiền lương hoặc sinh hoạt phí của liệt sĩ để so sánh với trợ cấp tiền tuất của
gia đình liệt sĩ:
- Đối với liệt sĩ là người hưởng
lương thì khoản còn lại bằng tiền lương của liệt sĩ trừ đi phần dành cho sinh
hoạt của bản thân liệt sĩ như khi còn sống. Tiền lương của liệt sĩ gồm lương
chính và các khoản phụ cấp, trợ cấp (nếu có). Phần dành cho sinh hoạt của bản
thân liệt sĩ quy định thống nhất cho cán bộ, công nhân, viên chức, công an, sĩ
quan và quân nhân chuyên nghiệp theo 3 mức dưới đây:
21 đồng đối với người có mức
lương chính từ 85 đồng trở xuống,
27 đồng đối với người có mức
lương chính từ 86 đồng đến 143 đồng,
33 đồng đối với người có mức
lương chính từ 144 đồng trở lên.
- Đối với liệt sĩ là người hưởng
sinh hoạt phí thì khoản còn lại là các khoản phụ cấp hàng tháng (không tính tiền
ăn và tiền quân trang).
- Số tiền tuất được đem so sánh
với khoản còn lại của tiền lương hoặc sinh hoạt phí của liệt sĩ là tổng số tiền
tuất của những thân nhân liệt sĩ đủ điều kiện hưởng tuất hàng tháng.
c) Trường hợp trợ cấp tiền tuất
hàng tháng của gia đình liệt sĩ thấp hơn khoản còn lại của tiền lương hoặc sinh
hoạt phí của liệt sĩ, thì gia đình được hưởng khoản còn lại của tiền lương hoặc
sinh hoạt phí của liệt sĩ trong 1 năm, kể từ tháng tiếp sau tháng liệt sĩ hy
sinh (sau đây gọi tắt là khoản bảo lưu). Khi chuyển sang hưởng trợ cấp tiền tuất
hàng tháng, gia đình liệt sĩ vẫn được hưởng khoản trợ cấp lần đầu theo quy đình
hiện hành.
Nếu trợ cấp tiền tuất hàng tháng
của gia đình liệt sĩ cao hơn khoản còn lại của tiền lương hoặc sinh hoạt phí của
liệt sĩ thì gia đình không hưởng khoản trợ cấp bảo lưu, mà hưởng trợ cấp tiền
tuất hàng tháng ngay từ đầu.
Trường hợp gia đình liệt sĩ hưởng
trợ cấp tiền tuất một lần cũng được hưởng khoản bảo lưu trong một năm.
d) Cách giải quyết những trường
hợp hy sinh từ ngày 1 tháng 5 năm 1975 trở về sau mà gia đình chưa được hưởng
khoản bảo lưu:
- Nếu gia đình hưởng tuất một lần
thì cơ quan, đơn vị giải quyết cho gia đình truy lĩnh khoản còn lại của tiền
lương hoặc sinh hoạt phí của liệt sĩ trong 12 tháng.
- Nếu gia đình đã hưởng trợ cấp
tiền tuất háng tháng mà trợ cấp tiền tuất hàng tháng thấp hơn khoản còn lại của
tiền lương hoặc sinh hoạt phí của liệt sĩ thì cơ quan, đơn vị giải quyết cho
gia đình truy lĩnh khoản chênh lệch ấy trong 12 tháng.
e) Việc trả khoản bảo lưu cho
gia đình liệt sĩ do các cơ quan, đơn vị sau đây giải quyết:
- Liệt sĩ là quân nhân, công
nhân viên quốc phòng, do quân đội phụ trách (Bộ Quốc phòng uỷ nhiệm cho các bộ
chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết).
- Liệt sĩ là công an nhân dân,
do ngành công an phụ trách.
- Liệt sĩ là cán bộ, công nhân
viên, thanh niên xung phong do Ty, Sở thương binh và xã hội phụ trách.
Chú ý: Trường hợp thân nhân chủ
yếu của liệt sĩ ở nhiều nơi thì chỉ một nơi giải quyết: Giải quyết cho vợ liệt
sĩ; nếu vợ liệt sĩ chết hoặc đi lấy chồng thì giải quyết cho con liệt sĩ; nếu
liệt sĩ không có vợ con thì giải quyết cho bố mẹ liệt sĩ. Trường hợp không còn
vợ mà liệt sĩ có nhiều con ở nhiều nơi hoặc bố mẹ liệt sĩ ở 2 nơi thì cũng chỉ
1 nơi giải quyết cho 1 người đứng tên hưởng, trên cơ sở thoả thuận, đoàn kết
trong gia đình.
III. VỀ CHÍNH
SÁCH ĐỐI VỚI BỆNH BINH
Điều 8 của Quyết định số 301-CP
thay cho đoạn đầu điều 1 của Quyết định số 78-CP ngày 13-4-1978 của Hội đồng
Chính phủ như sau:
" Những quân nhân (kể cả
quân nhân nhập ngũ sau ngày 30-4-1975) đã có đủ 5 năm công tác liên tục hoặc
chưa có 5 năm công tác liên tục, nhưng đã hoạt động ở nơi khó khăn, gian khổ,
hoặc trải qua chiến đấu ác liệt, vì ốm đau, sau khi đã điều trị, điều dưỡng mà
sức khoẻ vẫn không hồi phục, phải chuyển ra ngoài quân đội để về gia đình, đã
được xác định mất sức lao động từ 41% đến 59%, hoặc kể từ ngày ra ngoài quân đội
trong thời gian không quá 1 năm, do ốm đau, bệnh tật cũ tái phát, khám lại sức
khoẻ bị mất sức lao động từ 41% đến 59 %, thì được hưởng chế độ đãi ngộ đối với
bệnh binh".
Việc xét giải quyết chế độ bệnh
binh đối với những quân nhân nhập ngũ sau ngày 30-4-1975 vẫn theo đúng như hướng
dẫn của Bộ Thương binh và xã hội tại Thông tư số 15-TBXH ngày 15-8-1978, hướng
dẫn thi hành Quyết định số 78-CP; nay chỉ nói thêm như sau:
Quân nhân nhập ngũ sau ngày
30-4-1975 nói ở đây bao gồm cả những quân nhân tái ngũ từ ngày 1-5-1975 trở về
sau, đã hoàn thành nhiệm vụ trong quân đội, trở về địa phương. Đối với những
quân nhân tái ngũ này, điều kiện về thời gian công tác liên tục để hưởng chế độ
bệnh binh được tính cả thời gian phục vụ trong quân đội lần trước và lần sau cộng
lại.
IV. VỀ CHÍNH
SÁCH ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH CỦA NGƯỜI BỊ MẤT TÍCH
Ngày 2 tháng 8 năm 1978 Hội đồng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 193-CP về chính sách đối với người đã tham
gia kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ở miền Nam đến nay chưa rõ tin tức; Bộ
Thương binh và xã hội đã hướng dẫn tại Thông tư số 19-TBXH ngày 18-9-1978.
Nay, Hội đồng Chính phủ bổ sung
chính sách đối với gia đình của người bị mất tích từ ngày 1-5-1975 trở về sau tại
điều 10 của Quyết định số 301-CP như sau:
"Những quân nhân, công
nhân, viên chức và công dân đang làm nhiệm vụ chiến đấu, trực tiếp phục vụ chiến
đấu hoặc làm nhiệm vụ quốc tế mà bị mất tích từ ngày 1-5-1975 trở về sau, thì cơ
quan đơn vị quản lý người đó có trách nhiệm tìm kiếm và kết luận sớm. Trong thời
gian tìm kiếm, gia đình có người mất tích (là cán bộ, chiến sĩ có tiền lương hoặc
sinh hoạt phí) được trợ cấp hàng tháng bằng khoản còn lại của tiền lương hoặc
sinh hoạt phí sau khi đã trừ phần dành cho sinh hoạt của bản thân người đó.
Sau 6 tháng, nếu vẫn chưa rõ tin
tức thì gia đình có người mất tích được hưởng chế độ trợ cấp như đối với gia
đình liệt sĩ và chậm nhất là sau hai năm tìm kiếm (kể từ ngày mất tích), nếu
không có chứng cớ là đầu hàng, phản bội hoặc đào ngũ, thì những quân nhân, công
nhân , viên chức và công dân nói trên được xác nhận là liệt sĩ và gia đình được
hưởng mọi quyền lợi của gia đình liệt sĩ".
Về nội dung và cách thực hiện
chính sách đối với những trường hợp bị mất tích từ ngày 1-5-1975 trở về sau
cũng theo như hướng dẫn của Bộ Thương binh và xã hội tại Thông tư số 19-TBXH
ngày 18-9-1978. Nay nói thêm một số điểm như sau:
1. Những quân nhân, công nhân ,
viên chức và công dân bị mất tích nói ở đây là những người được tổ chức phân
công làm nhiệm vụ chiến đấu, trực tiếp phục vụ chiến đấu hoặc làm nhiệm vụ quốc
tế, bị mất tích từ ngày 1-5-1975 trở về sau.
2. Các cơ quan, đơn vị có người
mất tích phải tích cực tìm kiểm để kết luận sớm, không được để kéo dài. Thời hạn
hai năm là thời hạn tối đa trong điều kiện đã tích cực tìm kiếm mà vẫn không rõ
tin tức và nếu không có chứng cớ là người mất tích đã đầu hàng, phản bội, đào
ngũ hoặc chết vì những lý do không xứng đáng là liệt sĩ, thì người ấy được xác
nhận là liệt sĩ và gia đình người ấy được hưởng mọi quyền lợi của gia đình liệt
sĩ.
3. Nếu người mất tích là cán bộ,
chiến sĩ có tiền lương hoặc sinh hoạt phí thì trong thời gian 6 tháng đầu, kể từ
tháng tiếp sau tháng bị mất tích, cơ quan , đơn vị của người đó trả trợ cấp
hàng tháng cho gia đình bằng khoản còn lại của tiền lương hoặc sinh hoạt phí,
sau khi đã trừ phần dành cho sinh hoạt của bản thân người đó (cách tính khoản
còn lại của tiền lương hoặc sinh hoạt phí như đã nói tại điểm b, tiết 5, mục II
của thông tư này).
Sau 6 tháng, nếu vẫn chưa rõ tin
tức thì gia đình người mất tích được hưởng trợ cấp như đối với gia đình liệt
sĩ, cụ thể là:
- Nếu gia đình chưa đủ điều kiện
hưởng tuất hàng tháng thì cơ quan, đơn vị của người bị mất tích tiếp tục trả
cho gia đình khoản còn lại của tiền lương hoặc sinh hoạt phí thêm 6 tháng nữa
cho đủ 12 tháng bảo lưu và cơ quan thương binh xã hội trả cho gia đình khoản trợ
cấp tiền tuất 1 lần.
- Nếu gia đình có thân nhân đủ
điều kiện hưởng tuất hàng tháng mà trợ cấp tiền tuất hàng tháng thấp hơn khoản
còn lại của tiền lương hoặc sinh hoạt phí thì cơ quan, đơn vị của người bị mất
tích tiếp tục trả cho gia đình khoản còn lại của tiền lương hoặc sinh hoạt phí
thêm 6 tháng nữa cho đủ 12 tháng bảo lưu, tiếp đó cơ quan thương binh xã hội sẽ
trả trợ cấp tiền tuất hàng tháng cho gia đình (gồm cả trợ cấp lần đầu).
Trường hợp trợ cấp tiền tuất
hàng tháng cao hơn, thì gia đình được hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng ngay
mà không hưởng khoản còn lại của tiền lương hoặc sinh hoạt phí thêm 6 tháng nữa,
đồng thời được truy lĩnh khoản chênh lệch ấy trong thời gian 6 tháng mà gia
đình đã hưởng khoản còn lại của tiền lương hoặc sinh hoạt phí và do cơ quan
thương binh xã hội trả.
Khi người mất tích được xác nhận
là liệt sĩ thì gia đình người đó được hưởng mọi quyền lợi của gia đình liệt sĩ.
4. Những trường hợp mất tích từ
ngày 1-5-1975 đến nay, gia đình chưa hưởng đúng theo quy định trên thì giải quyết
như sau:
a) Nếu gia đình chưa được hưởng
các khoản trợ cấp thì cơ quan, đơn vị của người mất tích giải quyết cho gia
đình truy lĩnh khoản còn lại của tiền lương hoặc sinh hoạt phí trong 12 tháng,
kể từ tháng tiếp sau tháng bị mất tích; từ tháng tiếp theo, cơ quan thương binh
xã hội giải quyết cho gia đình khoản trợ cấp tiền tuất 1 lần hoặc trợ cấp tiền
tuất hàng tháng (gồm cả trợ cấp lần đầu, nếu gia đình đủ điều kiện hưởng). Trường
hợp trợ cấp tiền tuất hàng tháng cao hơn khoản còn lại của tiền lương hoặc sinh
hoạt phí thì cơ quan thương binh xã hội giải quyết cho gia đình truy lĩnh khoản
chênh lệch ấy trong 12 tháng.
b) Nếu cơ quan, đơn vị của người
mất tích đã tiếp tục trả khoản còn lại của tiền lương hoặc sinh hoạt phí mà:
- Chưa quá 12 tháng (kể từ tháng
tiếp sau tháng bị mất tích) thì tiếp tục trả đủ 12 tháng, tiếp đó, cơ quan
thương binh xã hội sẽ giải quyết như nói ở điểm a trên đây.
- Đã quá 12 tháng thì ngừng trả
để chuyển sang cơ quan thương binh xã hội thực hiện chế độ trợ cấp tiền tuất
như đối với gia đình liệt sĩ. Trường hợp trợ cấp tiền tuất hàng tháng cao hơn
khoản còn lại của tiền lương hoặc sinh hoạt phí thì cơ quan thương binh xã hội
giải quyết cho gia đình truy lĩnh khoản chênh lệch ấy trong suốt thời gian gia
đình đã hưởng khoản còn lại của tiền lương hoặc sinh hoạt phí. Trường hợp trợ cấp
tiền tuất hàng tháng thấp hơn khoản còn lại của tiền lương hoặc sinh hoạt phí,
gia đình không phải hoàn lại số tiền đã lĩnh quá thời hạn.
5. Nếu người mất tích thuộc diện
không có tiền lương hoặc sinh hoạt phí thì trong giai đoạn tìm kiếm, gia đình
không hưởng các khoản trợ cấp nói trên; nhưng khi người mất tích đựơc xác nhận
là liệt sĩ thì gia đình được hưởng mọi quyền lợi của gia đình liệt sĩ và được
hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng (nếu đủ điều kiện) kể từ ngày bị mất tích.
Riêng đối với cán bộ xã không giữ các chức vụ chủ chốt và công dân không ở trong
lực lượng dân quân tự vệ, mất tích từ ngày 1 tháng 5 năm 1975 đến trước ngày
ban hành Quyết định số 301-CP, thì gia đình được hưởng trợ cấp tiền tuất hàng
tháng (nếu đủ điều kiện) kể từ ngày 20-9-1980 theo như quy định tại Điều 2 của
quyết định.
Qua hai cuộc kháng chiến trước
đây, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, chế độ đối với thương binh, bệnh
binh, gia đình liệt sĩ; các địa phương đã tích cực thực hiện và đạt nhiều kết
quả, góp phần động viên, cổ vũ toàn dân, toàn quân hoàn thành mọi nhiệm vụ cách
mạng.
Sau ngày đất nước được hoàn toàn
giải phóng, tình hình và nhiệm vụ cách mạng đã thay đổi, có những quy định trước
đây, đến nay không còn phù hợp nữa. Trong khi chưa có đủ điều kiện để cải tiến
một cách căn bản toàn bộ chính sách thương binh, liệt sĩ. Hội đồng Chính phủ
ban hành Quyết định số 301-CP bổ sung một số chính sách, chế độ nhằm đáp ứng với
yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Bộ Thương binh và xã hội đề nghị
các ngành và Uỷ ban nhân dân các cấp quan tâm đối với vấn đề này, phổ biến cho
các cơ sở thuộc ngành mình, địa phương mình, cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ và
nhân dân, cho thương binh , bệnh binh và gia đình liệt sĩ, làm cho mọi người nắm
được ý nghĩa và nội dung của chính sách được bổ sung; xây dựng tinh thần phấn
khởi, đoàn kết, tránh suy tỵ, so sánh về chính sách, chế độ trong từng thời kỳ.
Các Sở, Ty thương binh và xã hội
cần phối hợp chặt chẽ với các ngành ở địa phương để sớm có kế hoạch triển khai
thực hiện. Đối với những trường hợp chết, bị thương, mất tích từ ngày 1 tháng 5
năm 1975 đến nay, cần cố gắng giải quyết xong trong năm 1981.
Trong quá trình thực hiện, còn
có vấn đề gì vướng mắc, đề nghị các ngành, các địa phương kịp thời phản ánh về
Bộ Thương binh và xã hội để nghiên cứu giải quyết.