Thông báo số 257/TB-VPCP về việc ý kiến kết luận của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải về các dự án nhiệt điện Hải Phòng, Quảng Ninh, Cẩm Phả do Văn phòng Chính phủ ban hành
Số hiệu | 257/TB-VPCP |
Ngày ban hành | 14/12/2007 |
Ngày có hiệu lực | 14/12/2007 |
Loại văn bản | Thông báo |
Cơ quan ban hành | Văn phòng Chính phủ |
Người ký | Phạm Viết Muôn |
Lĩnh vực | Đầu tư,Bộ máy hành chính,Xây dựng - Đô thị |
VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 257/TB-VPCP |
Hà Nội, ngày 14 tháng 12 năm 2007 |
THÔNG BÁO
Trong các ngày 6-7 tháng 12 năm 2007, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã đi kiểm tra tình hình thi công và chủ trì họp giao ban kiểm điểm tiến độ các dự án nhiệt điện Hải Phòng, Quảng Ninh, Cẩm Phả. Tham dự cuộc họp có đại diện lãnh đạo các Bộ: Công Thương, Văn phòng Chính phủ, Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam, chủ đầu tư, nhà thầu, tư vấn và các đơn vị liên quan.
Sau khi nghe đại diện chủ đầu tư, nhà thầu, tư vấn, các đơn vị liên quan của các dự án báo cáo tình hình thực hiện tiến độ công trình, giải pháp để vận hành thương mại các tổ máy của dự án nói trên; ý kiến của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố về công tác giải phóng mặt bằng, di dân tái định cư; ý kiến của các đại biểu dự họp, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải có ý kiến kết luận như sau:
1. Các Dự án nhiệt điện: Hải Phòng 1, 2 và Quảng Ninh 1, 2
a) Đánh giá:
- Dự án nhiệt điện Hải Phòng 1, 2 có nhiều hạng mục công trình đang bị chậm tiến độ từ 1-3 tháng, nhiều khả năng không thực hiện được mục tiêu, tiến độ phát điện thương mại quy định. Nguyên nhân chủ yếu do công tác quản lý và phối hợp giữa các đơn vị chưa tốt.
- Dự án nhiệt điện Quảng Ninh 1, 2: Gói thầu xây lắp hệ thống nước kỹ thuật, gói thầu xây dựng nhà điều hành; gói thầu xây dựng bãi thải xỉ bị chậm so với tiến độ quy định do cung cấp thiết kế, giải phóng mặt bằng chậm, thiếu nhân lực và thiết bị xe máy thi công.
b) Nhiệm vụ trong thời gian tới:
- Chủ đầu tư, Tổng thầu EPC, Tư vấn và các đơn vị tham gia trên công trường phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức giao ban thường xuyên, đánh giá tình hình, đề ra các giải pháp thực hiện bằng được mục tiêu tiến độ quy định. Xác định mục tiêu tiến độ phát điện thương mại của các dự án là Pháp lệnh, yêu cầu các đơn vị củng cố tổ chức, bố trí đủ nhân lực, thiết bị xe máy thi công, cung cấp thiết kế, thiết bị vật tư đồng bộ kịp thời, đề ra các giải pháp tối ưu, tranh thủ thời gian thi công lấy lại tiến độ bị chậm vừa qua.
- Chủ đầu tư, Tổng thầu EPC, Tư vấn, các đơn vị tham gia thi công trên công trường phải hết sức quan tâm và thực hiện nghiêm công tác an toàn lao động; giám sát thi công chặt chẽ bảo đảm chất lượng công trình; quản lý tốt công tác vệ sinh công nghiệp.
- Công ty cổ phần nhiệt điện Hải Phòng khẩn trương hoàn tất hợp đồng mua bán điện để thương thảo và ký hợp đồng với Tập đoàn Điện lực Việt Nam; hợp đồng mua bán than để thương thảo và ký hợp đồng với Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam.
- Tập đoàn Điện lực Việt Nam chỉ đạo các đơn vị khẩn trương hoàn thành việc xây dựng lưới điện đáp ứng tiến độ thi công, thí nghiệm và phát điện thương mại của các dự án nêu trên theo tiến độ quy định.
- Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng chỉ đạo việc di dời 307 hộ dân liên quan Dự án nhiệt điện Hải Phòng 2, phấn đấu hoàn thành cuối tháng 12 năm 2007. Trường hợp chưa kịp bàn giao mặt bằng chính thức, chính quyền địa phương tạo điều kiện giao mặt bằng tạm thời cho đơn vị Tư vấn triển khai ngay công tác khoan thăm dò địa chất, đo vẽ địa hình phục vụ kịp thời công tác thiết kế.
- Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh phối hợp với Công ty cổ phần nhiệt điện Quảng Ninh chỉ đạo công tác giải phóng mặt bằng, tái định cư tại các địa điểm thuộc huyện Hoành Bồ, thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả hoàn thành cuối tháng 4 năm 2008.
- Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh chỉ đạo Sở Công an phối hợp chặt chẽ với các đơn vị trên công trường đảm bảo công tác an ninh, trật tự trong khu vực công trường đang thi công.
2. Dự án nhiệt điện Cẩm Phả 1, 2:
a) Đánh giá:
- Biểu dương cán bộ công nhân kỹ sư Việt Nam và các nhà thầu nước ngoài tham gia thi công trên công trường đã có nhiều cố gắng bám đuổi mục tiêu kế hoạch tiến độ phát điện của Dự án nhiệt điện Cẩm Phả 1 vào tháng 4 năm 2009.
- Dự án nhiệt điện Cẩm Phả 2 đang khẩn trương hoàn thành công tác chuẩn bị đầu tư để khởi công xây dựng trong tháng 12 năm 2007.
b) Nhiệm vụ trong thời gian tới:
- Chủ đầu tư, Tổng thầu EPC, Tư vấn, các đơn vị trên công trường, chính quyền địa phương tổ chức giao ban thường xuyên, xác định mục tiêu tiến độ phát điện thương mại của dự án là Pháp lệnh, yêu cầu các đơn vị bổ sung đủ nhân lực, thiết bị xe máy thi công, cung cấp thiết kế, thiết bị vật tư đồng bộ kịp thời, đề ra các giải pháp tối ưu, tranh thủ thời gian thi công, phấn đấu phát điện thương mại trong tháng 2 năm 2009.
- Chủ đầu tư, Tổng thầu, Tư vấn, các đơn vị tham gia thi công trên công trường phải hết sức quan tâm và thực hiện nghiêm công tác an toàn lao động; giám sát thi công chặt chẽ, bảo đảm chất lượng công trình.
- Tập đoàn Điện lực Việt Nam chỉ đạo các đơn vị khẩn trương hoàn thành việc xây dựng lưới điện đáp ứng tiến độ thi công, thí nghiệm và phát điện thương mại của dự án đề ra.
- Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh chỉ đạo Công an tỉnh phối hợp chặt chẽ với các đơn vị trên công trường đảm bảo công tác an ninh, trật tự trong khu vực công trường đang thi công.
3. Nhiệm vụ của các Bộ, ngành liên quan:
a) Bộ Công Thương có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các dự án nêu trên bám sát tiến độ đã được xác định tại Quy hoạch điện VI; phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương liên quan tháo gỡ khó khăn cho các dự án, nếu vượt quá thẩm quyền, đề xuất giải pháp báo cáo Thủ tướng Chính phủ;
- Giao Bộ Công Thương chủ trì phối hợp với Bộ Xây dựng chỉ đạo chủ đầu tư các nhà máy nhiệt điện than xây dựng phương án tiêu thụ tro, xỉ cho các nhà máy xi măng góp phần bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh công nghiệp, sức khỏe nhân dân và hiệu quả của dự án báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong quý I năm 2008;