UỶ
BAN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
--------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
74/2007/QĐ-UBND
|
Thủ
Dầu Một, ngày 26 tháng 7 năm 2007
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN
HÀNH QUY CHẾ VỀ QUẢN LÝ, BẢO VỆ, SỬ DỤNG VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ – VĂN
HÓA VÀ DANH LAM THẮNG CẢNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG
UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 03 tháng 12
năm 2004;
Căn cứ Ðiều 54 và Ðiều 55
Luật Di sản văn hóa ban hành ngày 29/6/2001 và Nghị định 92/2002/NĐ-CP ngày
11/11/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Di sản văn hóa;
Căn cứ Thông tư liên tịch số
02/2005/TTLT/BVHTT-BNV ngày 21/01/2005 của Bộ Văn hóa – Thông tin và Bộ Nội vụ
về việc hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan
chuyên môn giúp quản lý nhà nước về văn hóa thông tin ở địa phương;
Xét đề nghị của Sở Văn hóa –
Thông tin tại Tờ trình số 27/TTr-SVHTT ngày 10 tháng 7 năm 2007,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo
Quyết định này Quy chế về quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát huy giá trị di tích
lịch sử – văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Điều 2. Chánh Văn phòng
Uỷ ban nhân dân tỉnh; Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin; Thủ trưởng các đơn vị có
liên quan; Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã; các tổ chức, cá nhân có
liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Quyết định này có hiệu lực sau
10 ngày, kể từ ngày ký./.
|
TM.
UỶ BAN NHÂN DÂN
CHỦ TỊCH
Nguyễn Hoàng Sơn
|
QUY CHẾ
VỀ
QUẢN LÝ, BẢO VỆ, SỬ DỤNG VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA VÀ DANH
LAM THẮNG CẢNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG
(Ban hành kèm theo Quyết định số 74/2007/QĐ-UBND ngày 26/7/2007 của Uỷ ban
nhân dân tỉnh Bình Dương)
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Quy chế này quy
định các hoạt động về quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát huy giá trị các di tích
lịch sử – văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Điều 2. Các cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội nghề
nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân (gọi tắt là tổ
chức, cá nhân) có trách nhiệm bảo vệ, quản lý và sử dụng phát huy hiệu quả di
tích.
Mọi hoạt động quản lý, bảo vệ,
sử dụng, khai thác và phát huy giá trị di tích trên địa bàn tỉnh Bình Dương của
các tổ chức hay cá nhân đều phải tuân theo Luật Di sản văn hóa nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các văn bản hướng dẫn thi hành dưới luật và nội dung
của Quy chế này.
Điều 3. Di tích là tài
sản vô giá của dân tộc được Nhà nước thống nhất quản lý và pháp luật nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo vệ.
Các cấp chính quyền, cơ quan
chức năng trong tỉnh có trách nhiệm hướng dẫn, tạo điều kiện để nhân dân tham
quan, nghiên cứu và thực hiện đầy đủ quyền lợi, nghĩa vụ đối với di tích.
Điều 4. Nghiêm cấm các
hành vi:
1. Chiếm đoạt, làm sai lệch di
tích.
2. Hủy hoại hoặc gây nguy cơ hủy
hoại di tích.
3. Đào bới trái phép địa điểm
khảo cổ, xây dựng trái phép, lấn chiếm đất đai thuộc di tích.
4. Mua bán, trao đổi và vận
chuyển trái phép di vật, bảo vật quốc gia thuộc di tích, đưa trái phép di vật,
cổ vật, bảo vật quốc gia ra nước ngoài.
5. Lợi dụng việc bảo vệ và phát
huy giá trị di tích để thực hiện những hành vi trái pháp luật.
Điều 5. Trong Quy chế này
các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
“Di tích lịch sử – văn hóa”
là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc
công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử – văn hóa, khoa học.
“Danh lam thắng cảnh” là
cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với
công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học.
Chương II
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DI TÍCH
Điều 6.
Căn cứ vào giá trị, qui mô và
điều kiện trong quản lý, sử dụng phát huy tốt nhất hiệu quả của di tích để phân
cấp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Sở Văn hóa – Thông tin có trách nhiệm
phối hợp với các huyện, thị xã tổ chức rà soát cụ thể và lập danh mục phân cấp
quản lý, bảo vệ, sử dụng đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt.
- Di tích thuộc tỉnh quản lý (di
tích được xếp hạng cấp Quốc gia): Giao cho Ban Quản lý di tích và danh thắng
trực tiếp quản lý, sử dụng, khai thác, phát huy và trùng tu, tôn tạo theo kế
hoạch của ngành văn hóa thông tin.
+ Đối với di tích quốc gia đặc
biệt có thể thành lập Ban Quản lý trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh. Trong trường
hợp chưa có đủ cán bộ chuyên môn thì có thể thành lập Ban Quản lý di tích quốc
gia đặc biệt trực thuộc Sở Văn hóa – Thông tin.
+ Đối với những di tích có giá
trị, yêu cầu chuyên môn cao thì có thể thành lập Ban Quản lý trực thuộc Ban
Quản lý di tích và danh thắng tỉnh.
- Di tích thuộc tỉnh, huyện, thị
xã đồng quản lý (di tích được xếp hạng cấp tỉnh): Giao cho Phòng Văn hóa Thông
tin – Thể thao huyện, thị xã, quản lý, sử dụng.
+ Những khu di tích có qui mô
rộng, phức tạp có thể thành lập Ban Quản lý liên ngành trực thuộc Uỷ ban nhân
dân huyện, thị xã.
+ Các di tích khác do Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn ra quyết định thành lập Ban Quản lý.
Điều 7.
1. Giám đốc Sở Văn hóa – Thông
tin chịu trách nhiệm trước Uỷ ban nhân dân tỉnh quản lý nhà nước các di tích
trên địa bàn tỉnh.
2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các
huyện, thị xã chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về di tích trên địa bàn. Phòng
Văn hóa Thông tin Thể thao và Uỷ ban nhân dân cấp xã giúp việc cho Uỷ ban nhân
dân cấp huyện thực hiện quản lý nhà nước về di tích trên địa bàn.
3. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các
xã, phường, thị trấn (gọi tắt là cấp xã) có trách nhiệm quản lý, bảo vệ, sử
dụng di tích theo phân cấp và chịu sự hướng dẫn của Uỷ ban nhân dân cấp trên
trực tiếp và của Phòng Văn hóa – Thông tin – Thể thao huyện, thị xã.
4. Sở Văn hóa – Thông tin và chính
quyền các cấp phối hợp với các ngành, đoàn thể cùng cấp hướng dẫn chi tiết việc
quản lý, bảo vệ và sử dụng, phát huy giá trị của di tích phù hợp với thẩm quyền
và phân cấp quản lý theo quy định của pháp luật.
Điều 8.
1. Di tích được xếp hạng Quốc
gia, xếp hạng cấp tỉnh hoặc đã được lập hồ sơ kiểm kê của ngành văn hóa – thông
tin đều đặt dưới sự quản lý, chỉ đạo, kiểm tra giám sát của Nhà nước và hướng
dẫn nghiệp vụ của ngành văn hóa thông tin.
2. Các cấp chính quyền có trách
nhiệm thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với di tích và bảo vệ, khai thác
phát huy giá trị các di tích trên địa bàn, kết hợp với quản lý theo ngành, lĩnh
vực phù hợp với sự phân công phân cấp hiện hành. Di tích nằm trên địa bàn nào
thì chính quyền địa phương đó có trách nhiệm quản lý, bảo vệ.
Điều 9.
1. Các đối tượng mới phát hiện
bất kỳ ở đâu thuộc địa bàn tỉnh có dấu hiệu được coi là di tích mà không xác
định được quyền sở hữu của ai thì thuộc quyền sở hữu của Nhà nước.
2. Cơ quan nhà nước, tổ chức hay
cá nhân khi phát hiện được các đối tượng có dấu hiệu được coi là di tích phải
có trách nhiệm bảo vệ nguyên trạng đối tượng và báo ngay với Uỷ ban nhân dân
xã, phường, thị trấn cấp sở tại có biện pháp khẩn cấp bảo quản và báo cáo cho
Sở Văn hóa – Thông tin trình Uỷ ban nhân dân tỉnh xử lý kịp thời.
3. Việc khai quật khảo cổ học
chỉ được tiến hành khi có giấy phép của Bộ Văn hóa – Thông tin và được sự đồng
ý bằng văn bản của Uỷ ban nhân dân tỉnh.
4. Chủ sở hữu di tích và tổ
chức, cá nhân khi muốn nhượng bán di tích thì Uỷ ban nhân dân tỉnh được ưu tiên
mua trước.
Điều 10. Sở Văn hóa –
Thông tin là cơ quan quản lý chuyên ngành về văn hóa có nhiệm vụ:
1. Tổ chức triển khai và quản lý
các hoạt động bảo tồn di tích tại địa phương, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ,
giám sát, thanh tra, kiểm tra các hoạt động liên quan đến quản lý bảo vệ, sử
dụng và khai thác phát huy hệ thống di tích hiện có.
2. Thẩm tra các dự án, đề án,
phương án quy hoạch ngành, tu bổ và tôn tạo phục hồi các di tích trước khi
trình Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt hoặc đề xuất Bộ Văn hóa – Thông tin theo
chức năng, thẩm quyền.
3. Tổ chức, phối hợp với các cơ
quan, ban ngành liên quan giải quyết, xử lý các hành vi vi phạm di tích theo
chức năng và thẩm quyền.
Điều 11. Uỷ ban nhân dân
cấp huyện, thị xã có nhiệm vụ:
1. Thực hiện chức năng quản lý
nhà nước đối với di tích theo thẩm quyền được phân cấp: Huyện, thị xã có trách
nhiệm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trong phạm vi địa bàn; ngăn
chặn bảo vệ, xử lý vi phạm; đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc
xếp hạng, đăng ký kiểm kê và xây dựng kế hoạch bảo vệ, bảo quản, tu bổ, phát
huy giá trị di tích.
2. Chỉ đạo chính quyền cấp cơ sở
và cơ quan chuyên ngành thuộc quyền trong các lĩnh vực liên quan hoạt động bảo
tồn di tích: Quản lý, bảo vệ, tu bổ tôn tạo, chống xuống cấp di tích trong điều
kiện cấp bách, quản lý đất đai di tích, tổ chức quản lý các hoạt động văn hóa,
lễ hội, tín ngưỡng, giáo dục truyền thống, phục vụ tham quan tại di tích, đảm
bảo an ninh, trật tự, vệ sinh cảnh quan môi trường, xử lý vi phạm nhằm bảo tồn
phát huy hiệu quả di tích.
3. Xây dựng chương trình, kế
hoạch kinh phí hàng năm trong hoạt động bảo tồn di tích tại địa phương. Di tích
thuộc cấp nào quản lý ngân sách hoạt động chi theo nguồn ngân sách cấp đó, theo
Luật Ngân sách.
Điều 12.
- Các di tích đã xếp hạng Quốc
gia, xếp hạng cấp tỉnh phải được gắn bia biển, nội quy, sơ đồ khoanh vùng bảo
vệ, sơ đồ hướng dẫn giới thiệu và cắm mốc giới địa chính đất di tích để mọi
người biết và thực hiện.
- Các di tích đã xếp hạng được
thành lập Tổ bảo vệ hoặc Ban Quản lý di tích. Tổ hoặc Ban có trách nhiệm quản
lý, bảo vệ các hiện vật, di vật, tài sản thuộc di tích, công trình, cảnh quan
di tích, hướng dẫn các sinh hoạt văn hóa, danh lam thắng cảnh, đảm bảo vệ sinh,
an ninh trật tự.
- Di tích thuộc cấp nào quản lý
thì Uỷ ban nhân dân cấp đó ra quyết định thành lập Tổ bảo vệ hoặc Ban Quản lý
di tích.
Điều 13.
Đối với các di tích đã tàn phá
hoàn toàn do thiên nhiên và con người gây ra mà qua giám định khoa học chứng
minh các di tích đó nay không còn nữa, thì Giám đốc Sở Văn hóa – Thông tin làm
tờ trình.
- Trình lên Uỷ ban nhân dân tỉnh
đề nghị xóa tên di tích đó trong danh mục đăng ký kiểm kê hoặc xếp hạng di tích
đối với di tích cấp tỉnh.
- Tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh
có văn bản đề nghị Bộ Văn hóa – Thông tin xóa tên di tích trong danh mục xếp
hạng di tích đối với di tích cấp Quốc gia.
Điều 14.
Các di tích nằm trong quy hoạch
tổng thể thuộc cấp nào quản lý thì cấp đó làm dự án và kế hoạch tu bổ phục hồi,
trùng tu tôn tạo.
Dự án và kế hoạch tu bổ phục
hồi, trùng tu tôn tạo phải được cơ quan chính quyền phê duyệt. Riêng dự án đầu
tư xây dựng công trình, tu bổ phục hồi, trùng tu, tôn tạo di tích, Sở Văn hóa –
Thông tin là đầu mối tổ chức thẩm định thiết kế cơ sở của dự án, có trách nhiệm
lấy ý kiến của các sở, ngành chức năng liên quan để các cấp có thẩm quyền thẩm
định, phê duyệt.
Nguồn vốn chống xuống cấp di
tích gồm có:
- Kinh phí Nhà nước đầu tư hàng
năm theo kế hoạch.
- Một phần tiền lệ phí tham quan
di tích hoặc nguồn thu khác từ di tích.
- Đóng góp của tập thể hoặc cá
nhân tự nguyện đóng góp.
- Vận động nhân dân địa phương
tự nguyện đóng góp.
- Các nguồn vốn tài trợ.
Điều 15.
1. Tất cả những đối tượng được
xác định là di tích không kể thuộc sở hữu của ai đều phải được đăng ký, kiểm kê
và đặt dưới quyền quản lý nhà nước của Uỷ ban nhân dân tỉnh và Bộ Văn hóa –
Thông tin.
2. Giám đốc Sở Văn hóa – Thông
tin chịu trách nhiệm trước Uỷ ban nhân dân tỉnh tổ chức đăng ký, kiểm kê đối với
những đối tượng được xác định là “Di tích”
3. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các
huyện, thị xã, phường, xã, thị trấn có trách nhiệm kê khai đăng ký với Sở Văn
hóa – Thông tin những đối tượng được xác định là “Di tích” trong địa phương
mình.
Điều 16.
1. Xác định giá trị tiêu biểu
của di tích là trách nhiệm của Ban Quản lý di tích và danh thắng tỉnh, cơ quan
chuyên môn thuộc Sở Văn hóa – Thông tin. Ban Quản lý di tích và danh thắng có
trách nhiệm phối hợp cùng các cấp chính quyền sở tại xây dựng hồ sơ khoa học, các
văn bản pháp lý theo trình tự thủ tục trình cấp thẩm quyền công nhận xếp hạng
di tích. Di tích được xếp hạng có hai cấp:
- Di tích xếp hạng cấp tỉnh do
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định.
- Di tích xếp hạng cấp Quốc gia
do Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin quyết định.
- Di tích Quốc gia đặc biệt do
Thủ tướng Chính phủ xếp hạng.
2. Căn cứ vào kết quả kiểm kê,
phân loại, xếp hạng để tiến hành biên soạn hồ sơ khoa học di tích theo quy định
như sau:
- Tờ trình của đơn vị có di tích
được chính quyền địa phương xác nhận.
- Ý kiến đồng ý của Sở Văn hóa –
Thông tin.
- Hồ sơ khoa học biên soạn đúng
theo hướng dẫn của Bộ Văn hóa – Thông tin và được Hội đồng khoa học Ban Quản lý
di tích và danh thắng tỉnh thẩm định mới được trình các cấp có thẩm quyền phê
duyệt.
- Quy trình đăng ký kiểm kê, xây
dựng hồ sơ khoa học, phân loại, đề nghị công nhận xếp hạng di tích, Sở Văn hóa
– Thông tin có trách nhiệm hướng dẫn chi tiết.
- Sau khi được Bộ Văn hóa –
Thông tin hoặc Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định công nhận và cấp bằng di tích,
chính quyền địa phương tổ chức đón nhận quyết định công nhận và bằng di tích.
Điều 17.
Đối với các di tích thuộc công
trình kiến trúc tôn giáo, chính quyền cấp tỉnh có trách nhiệm:
1. Phối hợp với tổ chức đoàn
thể, giáo hội thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo, tín
ngưỡng tại di tích.
2. Hướng dẫn, bảo vệ, tôn trọng
sự tự do tín ngưỡng, lễ hội của nhân dân theo chủ trương chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước đến các tổ chức, cá nhân được giao quản lý, bảo vệ và sử
dụng phát huy di tích.
3. Chỉ đạo cơ quan chuyên môn
thuộc quyền phối hợp cùng tổ chức đoàn thể sở tại tham mưu, đề xuất cho các cấp
chính quyền cùng cấp về mặt nhân sự là chức sắc tôn giáo tham gia Ban quản lý,
Tổ bảo vệ, quản lý điều hành sử dụng trực tiếp phát huy các công trình di tích
thuộc kiến trúc tôn giáo.
Điều 18.
1. Giám đốc các sở, ngành liên
quan: Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên – Môi trường, Sở Thương mại – Du lịch, Công an
tỉnh, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, Sở Khoa học và Công nghệ,… thực hiện
chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành đối với các lĩnh vực, hoạt động liên
quan đến di tích theo thẩm quyền, chức năng và luật định hiện hành; phối hợp
với ngành văn hóa – thông tin và Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã xây dựng các
đề án, giải pháp phát triển phù hợp cho từng loại hình, địa bàn có di tích nhằm
quy hoạch, bảo tồn phát huy có hiệu quả truyền thống văn hóa dân tộc, làm cơ sở
bền vững để phát triển văn hóa – du lịch.
2. Tăng cường quản lý nhà nước
đối với di tích theo hướng mở rộng quá trình xã hội hóa, thu hút sự tham gia
rộng rãi của nhân dân vào việc bảo vệ và phát huy di tích gắn với quản lý nhà
nước bằng pháp luật.
Chương III
QUẢN LÝ, BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY DI TÍCH
Điều 19.
Tất cả các đối tượng di tích đều
đặt dưới sự bảo hộ của Nhà nước, theo phân cấp, các tổ chức và cá nhân được
phân công trực tiếp quản lý, bảo vệ và sử dụng phát huy di tích có trách nhiệm.
1. Quản lý, bảo vệ và sử dụng di
tích theo chức năng nhiệm vụ được giao, đảm bảo tuân thủ Luật Di sản văn hóa và
các quy định của pháp luật hiện hành.
2. Bảo vệ, gìn giữ các giá trị
văn hóa phi vật thể, các công trình văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, điêu khắc,
tượng đài, sân vườn cây cảnh, cây cổ thụ, các bảo vật, di vật và cơ sở hạ tầng
thuộc di tích. Đảm bảo an ninh trật tự, vệ sinh, cảnh quan môi trường cho di
tích.
3. Các tài sản có giá trị gắn
với di tích như: Cổ vật, đồ thờ tự (chuông, khánh, đinh, bình, lư hương, lọ,
bát, đĩa, ấm chén, ly, ấn, tráp, bài vị, hương án, tượng, bia, hoành phi, câu
đối, sắc phong…) và những đồ vật khách thập phương hiến, cúng phải được kiểm
tra thường xuyên và kiểm kê hiện vật di tích. Khi đưa các hiện vật này ra khỏi
di tích hoặc đưa từ ngoài vào di tích phải được cấp thẩm quyền cho phép.
4. Thực hiện kịp thời các biện
pháp phòng ngừa, ngăn chặn cháy nổ, các hành vi xâm hại hoặc nguy cơ hủy hoại
di tích.
5. Thông báo cho các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xử lý các hành vi phá hoại, chiếm đoạt, sử dụng trái phép di
tích.
Điều 20.
- Các cấp chính quyền có trách
nhiệm chỉ đạo ngành, đơn vị quản lý di tích, tổ bảo quản di tích xây dựng kế
hoạch, phương án quản lý, bảo vệ, sử dụng và trùng tu, bảo quản thường xuyên,
phát huy các di tích có hiệu quả theo phân cấp quản lý.
- Các di tích đã được công nhận
xếp hạng nhưng chưa có điều kiện phát huy cần bảo vệ nguyên trạng. Khi có dấu
hiệu xuống cấp hoặc di tích bị xâm hại, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
quản lý trực tiếp phải có phương án bảo vệ kịp thời và báo cáo cơ quan chức
năng để có biện pháp phối hợp khắc phục, bảo vệ.
- Việc xây dựng, mở rộng các công
trình phục vụ, các công trình phúc lợi tôn tạo liên quan phải lập hồ sơ đúng
quy trình và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Điều 21.
Đơn vị quản lý, sử dụng di tích
theo định kỳ phải thường xuyên tu bổ, phục hồi và trùng tu, tôn tạo chống xuống
cấp di tích nhằm đảm bảo độ bền vững và giá trị vốn có của di tích.
1. Khi thực hiện các dự án tu
bổ, phục hồi và trùng tu, tôn tạo di tích phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Bảo đảm giữ gìn tối đa các yếu
tố nguyên gốc và các giá trị chuẩn xác của di tích về các mặt: Vị trí, cấu
trúc, chất liệu, vật liệu, kỹ thuật truyền thống, chức năng, nội thất, ngoại
thất, cảnh quan liên quan và các yếu tố khác của di tích.
- Bảo đảm sự hài hòa giữa các di
tích với môi trường cảnh quan xung quanh, sự an toàn cho bản thân công trình và
khách tham quan.
- Ưu tiên cho các hoạt động bảo
quản, gia cố di tích trước khi áp dụng những biện pháp tu bổ và phục hồi khác.
- Việc thay thế kỹ thuật hay
chất liệu cũ bằng kỹ thuật hay chất liệu mới phải được thí nghiệm trước để bảo
đảm kết quả chính xác khi áp dụng vào di tích.
Chỉ thay thế bộ phận cũ bằng bộ
phận mới các di tích khi hội đủ chứng cứ khoa học chuẩn xác và phải có sự phân
biệt rõ ràng giữa bộ phận mới thay thế bộ phận gốc.
2. Việc tu bổ, phục hồi và trùng
tu, tôn tạo chống xuống cấp phải có hồ sơ thực trạng về đề án thiết kế chi tiết
kèm theo dự toán kinh phí thực hiện. Hồ sơ gọi là: Dự án và thiết kế đối với
công việc tu sửa chống xuống cấp. Nội dung và quy trình thiết lập hồ sơ, trình
tự và thẩm quyền phê duyệt thực hiện theo quy định hiện hành của Nhà nước. Phải
có sự theo dõi, giám sát thường xuyên của các cơ quan có chức năng, có biên bản
nghiệm thu, bàn giao cụ thể và lưu hồ sơ tại Uỷ ban nhân dân các cấp (thông qua
cơ quan chuyên môn giúp việc) theo phân cấp quản lý.
- Uỷ ban nhân dân các huyện, thị
xã có thẩm quyền phê duyệt các báo cáo đầu tư tu sửa nhỏ cấp thiết chống xuống
cấp di tích theo phân cấp trong phạm vi địa phương quản lý, sau khi hồ sơ tu
sửa được cơ quan có thẩm quyền về văn hóa cấp tỉnh thẩm định về mặt di tích và
văn hóa.
- Các dự án thiết kế bảo quản,
tu bổ phục hồi, trùng tu tôn tạo di tích (đồng bộ, toàn diện, can thiệp đến
nhiều hạng mục của công trình di tích) có quy mô tu sửa lớn hoặc thuộc nhóm B
và C theo quy định của Luật Đầu tư xây dựng thuộc thẩm quyền phê duyệt của Uỷ
ban nhân dân tỉnh, sau khi có ý kiến đề nghị của Giám đốc Sở Văn hóa – Thông
tin đối với di tích cấp tỉnh hoặc có văn bản thẩm định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền về văn hóa cấp trên đối với di tích Quốc gia, di tích Quốc gia đặc
biệt.
Điều 22.
Trong quản lý sử dụng, di tích
phải được khai thác tích cực hợp lý để phục vụ giáo dục truyền thống và nhu cầu
hưởng thụ văn hóa cho nhân dân. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi phục vụ cho
khách tham quan, nghiên cứu, hành hương, du lịch và giải trí.
- Bảo vệ và tôn trọng tự do tín
ngưỡng, duy trì phát huy truyền thống văn hóa dân tộc.
- Việc tổ chức lễ hội ở các di
tích phải phù hợp với truyền thống lịch sử, đặc điểm điều kiện di tích, tình
hình kinh tế – xã hội và thuần phong mỹ tục của địa phương, bảo đảm lành mạnh,
an toàn, tiết kiệm. Thủ tục, trình tự tổ chức phải tuân theo quy định của pháp
luật và Quy chế tổ chức lễ hội của Bộ Văn hóa – Thông tin quy định.
Điều 23.
Các di tích phải bảo đảm trật
tự, an toàn, vệ sinh. Khách đến tham quan, hành lễ nếu nghỉ qua đêm tại di tích
phải đăng ký với chính quyền sở tại. Tổ chức, cá nhân quản lý, sử dụng di tích
có trách nhiệm lập sổ theo dõi và hướng dẫn khách thực hiện tốt quy định này.
Điều 24.
1. Các hình thức hoạt động, dịch
vụ khai thác, sử dụng di tích như: Cắm trại, biểu diễn nghệ thuật, quay phim,
chụp ảnh, xuất bản, du lịch, hàng lưu niệm…đều phải theo hướng dẫn của Sở Văn
hóa – Thông tin và chính quyền sở tại.
2. Các cơ quan được phân cấp
trực tiếp quản lý sử dụng di tích có trách nhiệm:
- Quản lý các nguồn thu từ khai
thác, phát huy sử dụng di tích, phí tham quan, từ nguồn thu công đức từ thiện
và đóng góp tài trợ khác cho di tích.
- Nguồn thu, chi được công khai,
sử dụng đúng mục đích, đạt hiệu quả đảm bảo đúng nguyên tắc, chế độ tài chính
hiện hành.
- Ưu tiên sử dụng nguồn kinh phí
thu được từ di tích cho việc tu bổ, tôn tạo, chống xuống cấp di tích và giữ gìn
trật tự, vệ sinh, môi trường cảnh quan cho di tích.
- Có hình thức thích hợp ghi
nhận sự đóng góp của các cơ quan, đoàn thể và cá nhân.
Chương IV
THANH TRA, KIỂM TRA, KHEN THƯỞNG, XỬ LÝ VI PHẠM
Điều 25. Thanh tra, kiểm
tra:
1. Các di tích đã xếp hạng Quốc
gia, xếp hạng cấp tỉnh hoặc đã lập hồ sơ kiểm kê đăng ký đều đặt dưới sự quản
lý, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, giám sát của Nhà nước. Thanh tra Sở Văn hóa –
Thông tin thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra toàn diện trong lĩnh vực hoạt
động quản lý, bảo tồn, tôn tạo, phát huy, sử dụng di tích trên phạm vi địa bàn
tỉnh. Các cơ quan có nhiệm vụ được giao, sau mỗi đợt thanh tra, kiểm tra phải
báo cáo chi tiết về kết quả kiểm tra và đề xuất hướng xử lý với cấp có thẩm
quyền theo phân cấp quản lý hiện hành.
2. Thanh tra Văn hóa – Thông
tin, Thanh tra liên ngành, Thanh tra Nhà nước cấp tỉnh, huyện, thị xã khi thanh
tra hoạt động bảo tồn di tích, nếu phát hiện sai phạm trong bảo quản, tôn tạo,
phục hồi di tích, các vi phạm được ghi tại Điều 4 của Quy chế và những vi phạm
khác liên quan đến di tích, thì có thẩm quyền lập biên bản, tạm đình chỉ, kiến
nghị thu hồi, xử phạt (theo Pháp lệnh Thanh tra) và báo cáo cơ quan nhà nước có
thẩm quyền để có biện pháp xử lý.
3. Khi phát hiện dấu hiệu vi
phạm ở các di tích; tổ chức, cá nhân quản lý sử dụng trực tiếp di tích có biện
pháp ngăn chặn ban đầu, đồng thời có trách nhiệm báo cáo kịp thời cho cơ quan
có thẩm quyền giải quyết theo phân cấp quản lý hiện hành.
4. Việc khiếu nại, tố cáo và
giải quyết khiếu nại tố cáo liên quan đến di tích thực hiện theo trình tự của
Luật Khiếu nại tố cáo quy định.
Điều 26. Khen thưởng – xử
lý vi phạm
Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thành tích xuất sắc trong việc quản lý, bảo vệ và phát huy các giá trị di tích
sẽ được khen thưởng. Mọi hành vi xâm hại di tích sẽ bị xử lý theo quy định của
pháp luật hiện hành.
Chương V
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 27.
Giao cho Giám đốc Sở Văn hóa –
Thông tin chịu trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn, chủ trì phối hợp với
các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp huyện,
thị xã, Trưởng ban Quản lý di tích và danh thắng, triển khai thực hiện nội dung
Quy chế này.
Trong quá trình thực hiện nếu
cần sửa đổi, bổ sung, Giám đốc Sở Văn hóa – Thông tin trình Uỷ ban nhân dân
tỉnh xem xét quyết định.
Điều 28.
Quy chế này được phổ biến rộng
rãi và thực thi trên địa bàn tỉnh. Các cơ quan thông tin đại chúng có trách
nhiệm tuyên truyền, giới thiệu nội dung Quy chế này. Sở Văn hóa – Thông tin, Uỷ
ban nhân dân các huyện, thị xã có trách nhiệm triển khai trực tiếp Quy chế này
đến các đơn vị quản lý di tích trong toàn tỉnh./.