Quyết định 1987/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Triển khai thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật” do Thủ tướng Chính phủ ban hành

Số hiệu 1987/QĐ-TTg
Ngày ban hành 30/11/2009
Ngày có hiệu lực 30/11/2009
Loại văn bản Quyết định
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Người ký Nguyễn Tấn Dũng
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
--------------

Số: 1987/QĐ-TTg

Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2009

 

QUYẾT ĐỊNH

PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN “TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÔNG TÁC THEO DÕI TÌNH HÌNH THI HÀNH PHÁP LUẬT”

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 03 tháng 6 năm 2008;
Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 03 tháng 12 năm 2004;
Căn cứ Nghị định số 178/2007/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ;
Căn cứ Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp,
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Phê duyệt Đề án “Triển khai thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật” (ban hành kèm theo Quyết định này).

Điều 2. Giao Bộ Tư pháp chủ trì, theo dõi, đôn đốc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện Đề án.

Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.

Điều 4. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.

 

 

Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
- Văn phòng BCĐ TW về phòng, chống tham nhũng;
- HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Kiểm toán Nhà nước;
- UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- VPCP: BTCN, các PCN, Cổng TTĐT, các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc;
- Lưu: Văn thư, PL (5b).

THỦ TƯỚNG




Nguyễn Tấn Dũng

 

ĐỀ ÁN

TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÔNG TÁC THEO DÕI TÌNH HÌNH THI HÀNH PHÁP LUẬT
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1987/QĐ-TTg ngày 30 tháng 11 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ)

I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách quan trọng nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo cho pháp luật phát huy tốt vai trò là công cụ quản lý nhà nước và xã hội. Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước đã đề ra, đặc biệt là Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị, đến nay nước ta đã có một hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ, đồng bộ, điều chỉnh một cách toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội; chất lượng các văn bản pháp luật ngày càng được nâng cao; tính thống nhất, đồng bộ và khả thi của các văn bản pháp luật ngày càng được bảo đảm.

Pháp luật chỉ có thể phát huy được vai trò trong quản lý nhà nước và xã hội khi được thi hành một cách đầy đủ và nghiêm minh. Trong khi công tác xây dựng pháp luật đã đạt được những thành tựu quan trọng, thì công tác thi hành pháp luật vẫn còn bộc lộ những khiếm khuyết. Nhiều quy định của pháp luật chưa thực sự đi vào cuộc sống, tình trạng pháp luật không được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất còn diễn ra trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Những khiếm khuyết của công tác thi hành pháp luật trước hết có nguyên nhân từ phía các cơ quan nhà nước, trong đó có các yếu tố chi phối như năng lực tổ chức; sự phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình thực hiện; các điều kiện đảm bảo và một số yếu tố khác. Điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả thi hành pháp luật ở nước ta trong thời gian qua.

Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, Chính phủ có nhiệm vụ bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân (Điều 112); Việc kiểm sát có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân trong mọi hoạt động nhằm phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật, tìm ra nguyên nhân, biện pháp giải quyết, đảm bảo cho các cơ quan, tổ chức và mọi công dân được hoạt động bình thường và theo đúng pháp luật (Điều 137).

Đến nay, quá trình thực hiện các nhiệm vụ nêu trên của Viện kiểm sát và Chính phủ đã có một số thay đổi. Đối với Viện kiểm sát, trong tiến trình cải cách, với mục tiêu dần dần xây dựng Viện kiểm sát thành Cơ quan công tố, ngày 25/12/2001 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 51/2001/QH10 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, theo đó, Viện kiểm sát chỉ thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp mà không còn thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật như trước đây nữa. Về phía Chính phủ, ngày 14/11/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 135/2003/NĐ-CP về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật, theo đó việc kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật đã được giao Bộ Tư pháp thực hiện. Tuy nhiên, từ năm 1992 đến trước khi Nghị định này được ban hành, Chính phủ chưa giao cho bất kỳ cơ quan nào giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ chung về bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật đã được quy định tại Điều 112 Hiến pháp năm 1992; kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật cũng chỉ là một trong rất nhiều hoạt động để Chính phủ thực hiện nhiệm vụ này.

Ngày 22/8/2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 93/2008/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp. Một trong những chức năng mà Bộ Tư pháp được giao thực hiện là chức năng quản lý nhà nước về công tác thi hành pháp luật, với hai nhiệm vụ cụ thể là theo dõi chung tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước; hướng dẫn, đôn đốc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong công tác theo dõi, đánh giá, báo cáo về tình hình thi hành pháp luật thuộc phạm vi quản lý của Bộ, ngành, địa phương. Bên cạnh đó, theo quy định của Nghị định số 24/2009/NĐ-CP ngày 05/3/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn hóa quy phạm pháp luật năm 2008, thì Bộ Tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn, đôn đốc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong công tác đánh giá việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật; theo dõi, đôn đốc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Quyết định; tổng hợp, báo cáo Chính phủ về tình hình thi hành văn bản quy phạm pháp luật trong phạm vi cả nước. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai nhiệm vụ theo dõi thi hành pháp luật ở địa phương, ngày 16/02/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 16/2009/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 8 Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, theo đó Sở Tư pháp có chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc theo dõi thi hành văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn cấp tỉnh.

Các văn bản pháp luật nêu trên là những cơ sở pháp lý quan trọng bước đầu để Bộ Tư pháp và các cơ quan, tổ chức có liên quan triển khai thực hiện công tác theo dõi thi hành pháp luật, trong đó có nhiệm vụ theo dõi chung của Bộ Tư pháp và theo dõi chuyên ngành, theo lãnh thổ của các Bộ, ngành và địa phương. Tuy nhiên, theo dõi thi hành pháp luật và một nhiệm vụ mới, rất quan trọng và chưa có nhiều kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện, đây cũng là nhiệm vụ có ý nghĩa xã hội lớn và có liên quan đến tổ chức và hoạt động của tất cả các cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến địa phương. Trong khi đó, các văn bản nêu trên mới chỉ giao nhiệm vụ chung cho Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, chưa quy định cụ thể về nội dung, phương thức cũng như trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc thực hiện và phối hợp thực hiện. Trước khi Nghị định số 93/2008/NĐ-CP, Nghị định số 24/2009/NĐ-CP và Nghị định số 16/2009/NĐ-CP được ban hành, Bộ Tư pháp cũng như các Bộ, ngành và địa phương chưa có sự chuẩn bị về các điều kiện và nguồn lực cần thiết cho việc triển khai thực hiện nhiệm vụ này. Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành hầu như chưa đề cập đến công tác theo dõi thi hành pháp luật, số ít văn bản có đề cập đến thì nội dung còn rất chung chung và chưa thống nhất; tổ chức bộ máy cũng như trình độ, năng lực cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới đặt ra. Chính vì vậy, để công tác theo dõi thi hành pháp luật được triển khai một cách bài bản, nề nếp và có hiệu quả, phải có quá trình nghiên cứu và chuẩn bị các điều kiện cần thiết với những bước đi và lộ trình phù hợp, trong đó có việc thực hiện thí điểm ở một số lĩnh vực pháp luật và ở một số Bộ, ngành, địa phương, sau đó tiến hành tổng kết, rút kinh nghiệm và triển khai nhân rộng trên phạm vi toàn quốc.

Trên cơ sở những phân tích và nhận định nêu trên, việc xây dựng Đề án “Triển khai thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật” là cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.

II. MỤC TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG ĐỀ ÁN

1. Mục tiêu của Đề án

a) Mục tiêu tổng quát:

Tăng cường hiệu quả trong việc tổ chức thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật, nhằm đảm bảo cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh, thống nhất, góp phần nâng cao hiệu quả thi hành và xây dựng pháp luật.

b) Mục tiêu cụ thể:

- Xây dựng, hoàn thiện thể chế về công tác theo dõi thi hành pháp luật;

[...]