ỦY
BAN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
--------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------
|
Số:
1712/QĐ-UBND
|
Đăk
Lắk, ngày 02 tháng 08 năm 2012
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH ĐỀ ÁN TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ ĐỊNH SỐ 55/2011/NĐ-CP
NGÀY 04/7/2011 CỦA CHÍNH PHỦ QUY ĐỊNH CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TỔ CHỨC
BỘ MÁY CỦA TỔ CHỨC PHÁP CHẾ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH
Căn cứ Luật
Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003;
Căn cứ
Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế.
Theo đề nghị của Giám đốc
Sở Tư pháp tại Tờ trình số 35/TTr-STP ngày 05 tháng 6 năm 2012,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quvết định này
Đề án triển khai thực hiện Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính
phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp
chế trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Điều 2. Giao Sở Tư pháp chủ trì phối hợp với Sở Nội
vụ và các Sở, ban, ngành có liên quan của tỉnh tổ chức triển khai, theo dõi,
đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Đề án ban hành kèm theo Quyết định này và định
kỳ báo cáo UBND tỉnh.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ
ngày ký.
Chánh văn phòng UBND tỉnh,
Giám đốc Sở Tư pháp, Giám đốc Sở Nội vụ, Thủ trưởng các Sở, ban, ngành của tỉnh;
Tổng giám đốc, Giám đốc các doanh nghiệp do tỉnh quản lý có trách nhiệm thi
hành Quyết định này./.
Nơi nhận:
- Như Điều 3 (để thực hiện);
- Bộ Tư pháp (thay báo cáo);
- CT, PCT UBND tỉnh;
- VP UBND tỉnh: LđVP;
- Website tỉnh, TT Công báo;
- Lưu: VT, NCm50
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN
CHỦ TỊCH
Lữ Ngọc Cư
|
ĐỀ ÁN
TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ ĐỊNH SỐ 55/2011/NĐ-CP NGÀY 04/7/2011
CỦA CHÍNH PHỦ QUY ĐỊNH CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA TỔ
CHỨC PHÁP CHẾ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1712/QĐ-UBND ngày 02/8/2012 của UBND tỉnh Đắk
Lắk)
I. SỰ CẦN THIẾT VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ BAN
HÀNH ĐỀ ÁN:
Để thực
hiện quản lý Nhà nước bằng pháp luật, nâng cao công tác pháp chế tại địa
phương, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, đảm bảo mọi
cơ quan, tổ chức, cá nhân “Sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, việc tổ
chức thực hiện công tác pháp chế là rất cần thiết. Chính phủ và các Bộ, ngành
Trung ương cũng đã rất quan tâm đến công tác này, thông qua việc ban hành nhiều
văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) quan trọng như:
- Nghị định
số 122/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức pháp chế ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và
doanh nghiệp nhà nước;
- Nghị định
số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế (thay thế Nghị định số
122/2004/NĐ-CP);
- Ngoài
ra, còn có các văn bản có liên quan khác, như:
+ Nghị định
số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp;
+ Nghị định
số 16/2010/NĐ-CP ngày 03/3/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước;
+ Nghị định
số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản
QPPL;
+ Quyết định
số 37/2008/QĐ-TTg ngày 12/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình
phổ biến giáo dục pháp luật giai đoạn 2008-2012;
+ Thông
tư số 03/2010/TT-BTP ngày 03/3/2010 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện công tác
theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
Các văn bản
nêu trên, đặc biệt là Nghị định số 55/2011/NĐ-CP đã khẳng định vị trí, vai trò,
chức năng và tổ chức hoạt động của công tác pháp chế, và là cơ sở pháp lý quan
trọng để xây dựng và thực hiện Đề án này.
II. THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CÔNG TÁC PHÁP CHẾ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH:
1. Về tổ chức bộ máy pháp chế tại các
cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh và Doanh nghiệp nhà nước của tỉnh hiện nay:
- Hầu hết
các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh chưa bố trí được cán bộ làm công tác
pháp chế chuyên trách theo quy định của Nghị định số 122/2004/NĐ-CP vì thiếu
biên chế, hoặc có biên chế nhưng không tìm được cán bộ thích hợp, đủ tiêu chuẩn.
- Trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ đang làm công tác pháp chế (kiêm nhiệm) chưa đồng
đều, nhất là ở các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, như có kiến thức chuyên
ngành, nhưng kiến thức về pháp luật còn hạn chế hoặc có kiến thức pháp luật
nhưng chưa có kiến thức chuyên ngành...
- Lãnh đạo
các cơ quan chuyên môn, doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự quan tâm đầy đủ đến
công tác pháp chế; chỉ bố trí cán bộ kiêm nhiệm thực hiện công tác pháp chế
(không bố trí chuyên trách), nên hoạt động còn mang tính hình thức, hiệu quả
chưa cao.
- Chưa có
cơ chế về chế độ, chính sách ưu đãi cho cán bộ làm công tác pháp chế, dẫn đến
tình trạng khó tuyển dụng đội ngũ cán bộ làm công tác này.
- Tại các
doanh nghiệp nhà nước của tỉnh, số lượng cán bộ làm công tác pháp chế còn ít,
trình độ, kiến thức pháp luật chưa cao; kinh nghiệm thực tiễn trong công tác
này chưa nhiều, nhất là kinh nghiệm đàm phán, soạn thảo, ký kết hợp đồng thương
mại..., dẫn đến việc tham mưu cho Lãnh đạo doanh nghiệp còn nhiều hạn chế.
2. Về hoạt động công tác pháp chế theo Nghị định số
122/2004/NĐ-CP trên địa bàn tỉnh:
Tuy công
tác pháp chế trên địa bàn tỉnh đã được triển khai kịp thời theo tinh thần Nghị
định số 122/2004/NĐ-CP và đã có những đóng góp tích cực vào quản lý nhà nước
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và hoạt động sản xuất kinh doanh
trên địa bàn tỉnh, song vẫn còn không ít tồn tại, đó là:
- Công
tác xây dựng văn bản QPPL tuy đã bám sát được yêu cầu thực tế phát sinh trong đời
sống xã hội, đảm bảo cho việc quản lý nhà nước bằng pháp luật, nhưng trình tự,
thủ tục thực hiện còn chưa nghiêm túc, đúng quy định; chất lượng soạn thảo, tỷ
lệ hoàn thành theo kế hoạch còn thấp, và vẫn còn tình trạng xin rút hoặc xin điều
chỉnh tiến độ đối với nhiều văn bản, do chất lượng các văn bản được soạn thảo
không đạt yêu cầu hoặc soạn thảo không kịp thời các văn bản đã được đăng ký vào
Chương trình ban hành.
- Công
tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thời gian gần đây đã có những
chuyển biến tích cực với nhiều hình thức đa dạng và đã góp phần quan trọng,
trong việc nâng cao ý thức pháp luật cho các đối tượng, song tính chủ động
trong triển khai thực hiện tại các cơ quan, đơn vị chưa cao.
- Công
tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật đã từng bước phát huy hiệu quả,
tạo kênh thông tin quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống văn bản QPPL. Tuy
nhiên, công tác này vẫn còn nhiều hạn chế về kỹ năng kiểm tra và xử lý các văn
bản có dấu hiệu trái pháp luật tại các cơ quan, đơn vị.
- Công
tác hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp, theo dõi thi hành pháp luật, thực hiện Luật
trách nhiệm bồi thường nhà nước, tuy đã được triển khai, quán triệt, nhưng kết
quả cụ thể tại các cơ quan, đơn vị hầu như chưa có (ngoài các hoạt động do Sở
Tư pháp thực hiện).
III. NỘI DUNG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ
ĐỊNH SỐ 55/2011/NĐ-CP TẠI CÁC CƠ QUAN, DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CỦA TỈNH:
1. Thành lập tổ chức pháp chế ở các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh và doanh nghiệp nhà nước do tỉnh quản lý:
1.1. Mục tiêu, yêu cầu:
- Kịp thời
xây dựng, thành lập tổ chức pháp chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh
và các doanh nghiệp nhà nước do tỉnh quản lý, nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ
theo quy định của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP.
- Việc
xây dựng, thành lập tổ chức pháp chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh
và doanh nghiệp nhà nước do tỉnh quản lý phải tiến hành khẩn trương, nghiêm
túc, đồng bộ, đảm bảo đúng quy định tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP và nội dung
của Đề án này.
- Đảm bảo
việc tổ chức triển khai công tác pháp chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
tỉnh và Doanh nghiệp nhà nước do tỉnh quản lý đồng bộ, thống nhất, đáp ứng yêu
cầu tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật và thực hiện nhiệm vụ sản
xuất, kinh doanh tại các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước theo đúng quy định của
pháp luật.
1.2. Nội dung, biện pháp thực hiện:
a) Đối với cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh
Chậm nhất
đến ngày 25/8/2012 phải thực hiện xong việc thành lập Phòng Pháp chế tại các Sở
theo quy định tai Điều 9, Nghị định số 55/2011/NĐ-CP, cụ thể gồm: Sở Nội vụ; Sở
Kế hoạch và Đầu tư; Sở Tài chính; Sở Công thương; Sở Tài nguyên và Môi trường;
Sở Xây dựng; Sở Lao động, Thương binh và Xã hội; Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Sở Giao thông Vận tải; Sở Y tế; Sở
Thông tin và Truyền thông; Sở Khoa học và Công nghệ; Sở Giáo dục và Đào tạo. Đối
với Sở đã thành lập Phòng Pháp chế, thì tiếp tục kiện toàn tổ chức và hoạt động
theo Đề án này.
Trong khi
chờ Thông tư hướng dẫn của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ, trước mắt bố trí mới Phòng
Pháp chế gồm có Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng và ít nhất 01 chuyên viên từ số
cán bộ, công chức đang làm công tác pháp chế (chuyên trách hoặc kiêm nhiệm) tại
cơ quan, đơn vị theo Nghị định số 122/2004/NĐ-CP; ngoài ra, thủ trưởng các cơ
quan, đơn vị sắp xếp, bố trí từ số lượng biên chế hiện có để đảm bảo tổ chức và
hoạt động của Phòng Pháp chế (gồm Trưởng phòng, Phó trưởng phòng và ít nhất 01
chuyên viên).
Các sở,
ngành còn lại (ngoài 14 sở được thành lập Phòng Pháp chế trên đây), bố trí ít
nhất từ 01 đến 03 công chức từ nguồn biên chế hiện có để làm công tác pháp chế
chuyên trách tại cơ quan, đơn vị (chậm nhất đến ngày 25/8/2012, thủ trưởng cơ
quan, đơn vị phải có quyết định bố trí bằng văn bản và báo cáo UBND tỉnh -
thông qua Sở Tư pháp).
b) Đối với doanh nghiệp nhà nước do tỉnh quản lý:
Căn cứ
nhu cầu công tác pháp chế, doanh nghiệp quyết định thành lập Phòng Pháp chế hoặc
bố trí nhân viên pháp chế chuyên trách và báo cáo kết quả với UBND tỉnh (thông
qua Sở Tư pháp) chậm nhất vào ngày 25/8/2012.
2. Đảm bảo hoạt động của tổ chức pháp chế
tại ở các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh và doanh nghiệp nhà nước do tỉnh
quản lý:
2.1. Mục tiêu, yêu cầu:
- Hoàn
thiện, nâng cao kiến thức về pháp luật, kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ công tác
pháp chế theo quy định tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP; đồng thời bổ sung kiến
thức chuyên sâu, kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên
làm công tác pháp chế (sau đây gọi là người làm công tác pháp chế) tại các cơ
quan chuyên môn của UBND tỉnh và các doanh nghiệp Nhà nước do tỉnh quản lý, nhằm
đáp ứng yêu cầu của công việc trong tình hình mới.
- Nâng
cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức pháp chế để đáp ứng yêu cầu sau khi có
Quyết định điều động hoặc tuyển dụng vào làm công tác pháp chế tại cơ quan, đơn
vị (được đào tạo về pháp luật và bồi dưỡng kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ về
công tác pháp chế); sau 5 năm làm công tác pháp chế phải có trình độ cử nhân Luật
(đối với cán bộ, công chức chưa có bằng cử nhân Luật) và đáp ứng yêu cầu trình độ, yêu cầu chuyên sâu trong từng lĩnh vực pháp luật
cụ thể; thường xuyên cập nhật kiến thức,
nghiệp vụ chuyên sâu, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ liên quan cho người làm công
tác pháp chế ở các cơ quan, đơn vị.
2.2. Về nội dung, biện pháp thực hiện:
a) Đảm bảo tiêu chuẩn công chức, nhân viên pháp chế:
Việc điều
động, tuyển dụng, bổ nhiệm công chức, nhân viên pháp chế phải đảm bảo đủ tiêu
chuẩn theo quy định tại Điều 12 Nghị định số 55/2011/NĐ-CP.
b) Đảm bảo chức năng, nhiệm vụ của tổ chức pháp chế:
Các tổ chức
pháp chế thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo đúng quy định tại Điều 6, Điều 7,
Nghị định số 55/2011/NĐ-CP và các văn bản có liên quan.
c) Chế độ chính sách, kinh phí và các biện pháp bảo đảm hoạt
động của tổ chức pháp chế:
- Đối với tổ chức pháp chế ở các cơ quan thuộc UBND tỉnh:
Chế độ
chính sách đối với người làm công tác pháp chế thực hiện theo quy định hiện
hành. Kinh phí hoạt động của tổ chức pháp chế nằm trong kinh phí hoạt động thường
xuyên của cơ quan; trình tự, thủ tục lập dự toán, sử dụng, quyết toán kinh phí
cho hoạt động của tổ chức pháp chế thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách
nhà nước và các văn bản hướng dẫn liên quan.
Thủ trưởng
các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh phải bảo đảm các điều kiện hoạt động cần
thiết cho tổ chức pháp chế thuộc cơ quan mình như: cơ sở vật chất, trang thiết
bị phục vụ hoạt động...
- Đối với pháp chế thuộc doanh nghiệp nhà nước do tỉnh quản
lý:
Thực hiện
theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội
...
Doanh
nghiệp nhà nước có thể áp dụng tiêu chuẩn, chế độ của người làm công tác pháp
chế ở các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh để lựa chọn, bố trí, sử dụng và
quyết định chế độ đối với nhân viên pháp chế thuộc doanh nghiệp mình.
d) Công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho người
làm công tác pháp chế:
Hàng năm,
Sở Tư pháp có trách nhiệm chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho các đối tượng là người làm công tác pháp chế,
trình UBND tỉnh phê duyệt.
Người làm
công tác pháp chế, Phòng pháp chế chịu sự hướng dẫn về mặt chuyên môn nghiệp vụ
của Bộ chuyên ngành và của Sở Tư pháp.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Sở Tư pháp có trách nhiệm:
- Chủ trì
phối hợp với Sở Nội vụ hướng dẫn các cơ quan có liên quan triển khai có hiệu quả,
đúng tiến độ của Đề án; kiểm tra, tổng hợp kết quả thực hiện Đề án, báo cáo
UBND tỉnh.
- Tổ chức tập huấn, bồi
dưỡng, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện công tác pháp chế trên địa
bàn tỉnh; hàng năm xây dựng các kế hoạch có liên quan đến hoạt động của tổ chức
pháp chế.
- Rà
soát, tự kiểm tra các văn bản có liên quan đến công tác pháp chế do UBND tỉnh
ban hành để từng bước hoàn thiện về măt thể chế, tạo cơ sở pháp lý cho việc quản
lý, điều hành và tổ chức thực hiện.
- Thực hiện
các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật có liên quan và chỉ đạo của UBND
tỉnh.
2. Sở Nội vụ có trách nhiệm:
- Chủ
trì, phối hợp với Sở Tư pháp và các cơ quan liên quan đảm bảo việc thành lập, bố
trí cán bộ pháp chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh đúng tiến độ đã
đề ra.
- Hướng dẫn
các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh bổ sung quy định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, cơ cấu của tổ chức pháp chế vào các quyết định quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, để đảm bảo thực hiện thống nhất.
- Thực hiện
các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật và chỉ đạo của UBND tỉnh đề đảm bảo
thực hiện có hiệu quả Đề án.
3. Sở Tài chính có trách nhiệm: Tham mưu UBND tỉnh bố trí kinh phí đảm bảo cho hoạt động của tổ
chức pháp chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh theo quy định của pháp
luật hiện hành có liên quan.
4. Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND tỉnh có trách nhiệm:
- Tổ chức
triển khai thực hiện có kết quả và đúng tiến độ theo các nội dung công việc và
mốc thời gian đã quy định tại Đề án này và báo cáo kết quả về Sở Tư pháp để tổng
hợp báo cáo UBND tỉnh.
- Chỉ đạo
công chức pháp chế, tổ chức pháp chế ở đơn vị xây dựng kế hoạch và triển khai
thực hiện có hiệu quả công tác pháp chế hàng năm.
- Chủ động
thực hiện các giải pháp để nâng cao chất lượng công tác pháp chế ở cơ quan, đơn
vị.
5. Trách nhiệm của lãnh đạo doanh nghiệp
thuộc tỉnh quản lý.
Căn cứ nội
dung của Đề án để lựa chọn mô hình tổ chức pháp chế phù hợp (thành lập Phòng
Pháp chế hoặc bố trí nhân viên pháp chế chuyên trách) nhằm nâng cao hiệu quả
công tác pháp chế, đảm bảo tính pháp lý cho mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Trong quá trình triển khai
thực hiện Đề án, nếu có khó khăn, vướng mắc, các cơ quan, đơn vị có liên quan
phản ánh kịp thời về Sở Tư pháp để tổng, hợp báo cáo UBND tỉnh xem xét, giải quyết./.