Nghị quyết 6b/NQ-TLĐ năm 2011 về công tác vận động nữ công nhân, viên chức, lao động thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam ban hành
Số hiệu | 6b/NQ-TLĐ |
Ngày ban hành | 29/01/2011 |
Ngày có hiệu lực | 29/01/2011 |
Loại văn bản | Nghị quyết |
Cơ quan ban hành | Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam |
Người ký | Đặng Ngọc Tùng |
Lĩnh vực | Lao động - Tiền lương |
TỔNG
LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 06b/NQ-TLĐ |
Hà Nội, ngày 29 tháng 1 năm 2011 |
NGHỊ QUYẾT
HỘI NGHỊ LẦN THỨ SÁU BAN CHẤP HÀNH TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM KHOÁ X
VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG NỮ CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC, LAO ĐỘNG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC
Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (khoá X) họp ngày 5-6 tháng 1 năm 2011, tại thành phố Hồ Chí Minh, đã thảo luận và thông qua Nghị quyết về công tác vận động nữ công nhân, viên chức, lao động trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (sau đây viết tắt là nữ CNVCLĐ).
I. TÌNH HÌNH NỮ CNVCLĐ VÀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG NỮ CNVCLĐ TRONG THỜI GIAN QUA
Trong công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, hơn hai mươi năm qua, cùng với giai cấp công nhân, đội ngũ nữ CNVCLĐ đã lớn mạnh không ngừng cả về số lượng và chất lượng, chiếm trên 48% tổng số CNVCLĐ. Ở một số ngành, nghề, nữ chiếm tỉ lệ khá cao như Ngân hàng, Giáo dục, Y tế, Dệt may, Cao su... Nữ CNVCLĐ đã có nhiều đóng góp quan trọng vào các thành tựu kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Đảng, Nhà nước và tổ chức Công đoàn luôn quan tâm, chăm lo tạo điều kiện cho sự tiến bộ của nữ CNVCLĐ và thúc đẩy thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, vì sự phát triển của phụ nữ. Thực hiện Nghị quyết 4C/TLĐ ngày 5/1/1996 của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (khoá VII) về “Công tác vận động nữ CNLĐ trong tình hình mới”, 15 năm qua, các cấp công đoàn đã quan tâm chỉ đạo triển khai và thu được những kết quả đáng khích lệ. Công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt cho nữ CNVCLĐ được đẩy mạnh, đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung, mở rộng về đối tượng; tích cực tham gia xây dựng và kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ chính sách, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho nữ CNVCLĐ. Phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” đã thu hút đông đảo nữ CNVCLĐ tham gia và ngày càng phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, các hoạt động xã hội tiếp tục được đẩy mạnh, công tác cán bộ nữ có bước chuyển biến. Qua thực tiễn hoạt động phong trào đã xây dựng được đội ngũ cán bộ nữ công luôn tận tụy, tâm huyết; phương thức hoạt động nữ công ngày càng được đổi mới. Kết quả 15 năm thực hiện đã khẳng định cả về mặt lí luận và thực tiễn của Nghị quyết 4C với nội dung toàn diện, phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của đất nước giai đoạn sau 10 năm đổi mới. Việc ban hành Nghị quyết của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn về công tác nữ đã góp phần nâng cao hơn nữa nhận thức, trách nhiệm của tổ chức Công đoàn đối với vai trò của lực lượng nữ CNVCLĐ và góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng giới.
Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, công tác vận động nữ CNVCLĐ cũng còn nhiều thách thức. Trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, năng lực quản lý điều hành, kỹ năng nghề nghiệp của một bộ phận lao động nữ còn hạn chế; điều kiện lao động, điều kiện sống, chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, nhà ở, nhà trẻ mẫu giáo và đời sống tinh thần của nữ CNVCLĐ vẫn còn nhiều bức xúc. Đặc biệt, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, một bộ phận nữ công nhân ở các doanh nghiệp còn gặp khó khăn, việc làm không ổn định, thu nhập thấp; tình hình giá cả biến động, các dịch vụ xã hội ở các khu công nghiệp chưa được đảm bảo cũng có những áp lực đến đời sống, việc nuôi dạy con cái, hạnh phúc gia đình của nữ CNVCLĐ. Vấn đề chăm sóc sức khoẻ sinh sản, nữ đơn thân, nữ có hoàn cảnh khó khăn chưa được quan tâm đúng mức; tỉ lệ cán bộ nữ tham gia lãnh đạo quản lý còn thấp; công tác nữ công ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước còn nhiều khó khăn, chậm đổi mới phương thức hoạt động, chưa thu hút được đông đảo nữ CNVCLĐ vào tổ chức Công đoàn.
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do:
- Nhận thức về bình đẳng giới còn hạn chế; sự kiểm tra đôn đốc việc thực hiện các chủ trương, chính sách với nữ CNVCLĐ chưa đồng bộ, chưa quyết liệt, còn có biểu hiện khoán trắng công tác nữ cho cán bộ nữ công.
- Việc quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ chưa được quan tâm đúng mức; đội ngũ cán bộ nữ công vừa kiêm nhiệm lại thiếu ổn định.
- Lồng ghép giới trong hoạch định và thực thi chính sách nói chung và hoạt động công đoàn nói riêng là vấn đề mới nên còn lúng túng.
Nhằm tiếp tục phát huy vai trò và tiềm năng của nữ CNVCLĐ, quán triệt Nghị quyết 11/NQ-TW của Bộ Chính trị về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Nghị quyết 20/NQ-TW của Ban Chấp hành TW Đảng về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Luật Bình đẳng giới và các văn bản pháp luật liên quan. Trong thời gian tới, công tác vận động nữ CNVCLĐ cần quán triệt các quan điểm, mục tiêu và tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau đây:
II. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU
1. Quan điểm
- Công tác vận động nữ CNVCLĐ là một trong những nhiệm vụ quan trọng của tổ chức Công đoàn nhằm phát huy vai trò, tiềm năng, trí tuệ của nữ CNVCLĐ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Công tác vận động nữ CNVCLĐ phải phù hợp với các đối tượng, ngành, nghề; đáp ứng được nguyện vọng, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nữ CNVCLĐ; tạo điều kiện để nữ CNVCLĐ nâng cao trình độ mọi mặt, thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người vợ, người thầy đầu tiên của con người.
- Vận động nữ CNVCLĐ là trách nhiệm trực tiếp, thường xuyên của các cấp công đoàn, được quán triệt trong các mặt hoạt động của công đoàn. Ban Nữ công có vai trò nòng cốt, đầu mối trong việc tham mưu giúp Ban Thường vụ, Ban Chấp hành công đoàn cùng cấp chỉ đạo, triển khai thực hiện.
2. Mục tiêu
- Xây dựng đội ngũ nữ CNVCLĐ ngày càng lớn mạnh, nâng cao trình độ mọi mặt nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế; góp phần nâng cao vị thế của phụ nữ trong gia đình và xã hội, thực hiện bình đẳng giới; xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
- Coi trọng việc chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nữ CNVCLĐ.
- Tập hợp đông đảo nữ CNVCLĐ ở các thành phần kinh tế vào tổ chức Công đoàn; Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ của tổ chức Công đoàn, kiện toàn Ban Nữ công các cấp cả về số lượng và chất lượng.
III. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Nâng cao nhận thức về công tác phụ nữ và bình đẳng giới
- Tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu về công tác phụ nữ trong tình hình mới nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp công đoàn về công tác vận động nữ CNVCLĐ, trên cơ sở đó chủ động hoặc phối hợp tham gia các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới và lồng ghép giới trong hoạt động công đoàn.
- Tiếp tục triển khai có hiệu quả chương trình hành động của Tổng Liên đoàn LĐVN thực hiện Nghị quyết 11/NQ-TW của Bộ Chính trị về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Nghị quyết 20/NQ-TW của Ban Chấp hành TW Đảng khoá X về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” và Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới.
- Các cấp công đoàn, Báo Lao động, Tạp chí Lao động và Công đoàn và các tạp chí trong hệ thống công đoàn tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức về giới, bình đẳng giới trong CNVCLĐ; đấu tranh chống tư tưởng coi thường phụ nữ, các hành vi phân biệt đối xử, xúc phạm nhân phẩm, bạo hành với nữ CNVCLĐ.
2. Tăng cường vai trò đại diện của Công đoàn nhằm chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nữ CNVCLĐ