BỘ
CHÍNH TRỊ
--------
|
ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
----------------
|
Số:
11-NQ/TW
|
Hà
Nội, ngày 27 tháng 4 năm 2007
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ
CÔNG TÁC PHỤ NỮ THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
I- Tình hình phụ nữ và công tác
phụ nữ thời gian qua
Trong suốt quá trình cách mạng, Ðảng
ta luôn quan tâm lãnh đạo công tác phụ nữ và thực hiện mục tiêu bình đẳng giới.
Trong thời kỳ đổi mới, chủ trương của Ðảng về công tác phụ nữ và bình đẳng giới
được thể hiện xuyên suốt trong Nghị quyết Ðại hội Ðảng, các nghị quyết và chỉ
thị của Trung ương Ðảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác quần chúng, công
tác vận động phụ nữ, công tác cán bộ nữ. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách
cụ thể nhằm tạo điều kiện để phụ nữ phát triển và thúc đẩy bình đẳng giới.
Thực hiện chủ trương, chính sách
của Ðảng và Nhà nước, trong những năm qua, phong trào phụ nữ và bình đẳng giới của
nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Các tầng lớp phụ nữ đã phát huy truyền
thống đoàn kết, sáng tạo trong học tập, lao động và công tác, đạt nhiều thành
tích xuất sắc trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng, góp phần quan trọng xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước. Nhận
thức xã hội về bình đẳng giới được nâng lên. Phụ nữ được tôn trọng và bình đẳng
hơn, địa vị của người phụ nữ trong xã hội và gia đình ngày càng được cải thiện.
Bình đẳng giới của Việt Nam được Liên hợp quốc đánh giá là điểm sáng trong thực
hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. Hội liên hiệp phụ nữ các cấp đã có nhiều sáng
tạo trong đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, góp phần thực hiện có hiệu
quả chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước về công tác phụ nữ.
Tuy vậy, trước yêu cầu của công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, tình hình
phụ nữ và công tác phụ nữ còn nhiều mặt hạn chế, đồng thời lại có những vấn đề
mới đặt ra với nhiều thách thức.
Do trình độ học vấn, chuyên môn,
nghề nghiệp còn thấp, phụ nữ bị hạn chế hơn nam giới về cơ hội có việc làm và thu
nhập. Trong nhiều doanh nghiệp, trong các khu công nghiệp tập trung, việc làm
của lao động nữ thiếu ổn định, điều kiện lao động, điều kiện sống không được bảo
đảm; chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động chưa được thực hiện
đầy đủ. Số phụ nữ nông thôn thiếu việc làm, di cư tự phát ra thành phố ngày
càng tăng. Ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, tỷ lệ phụ nữ mù chữ, nghèo còn cao,
còn bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán lạc hậu. Phụ nữ cao tuổi, phụ nữ đơn
thân, phụ nữ tàn tật có hoàn cảnh khó khăn chưa được quan tâm đúng mức.
Cơ chế thị trường và quá trình công
nghiệp hóa một mặt có tác động tích cực, nhưng mặt khác đã và đang làm nảy sinh
nhiều vấn đề xã hội liên quan trực tiếp tới phụ nữ. Phụ nữ gặp nhiều khó khăn,
thách thức khi thực hiện vai trò người mẹ, người thầy đầu tiên của con người
trong điều kiện xã hội và gia đình Việt Nam có nhiều thay đổi. Phẩm chất đạo
đức và một số giá trị truyền thống tốt đẹp có phần bị mai một, lối sống thực dụng
có xu hướng phát triển trong một bộ phận phụ nữ. Tình trạng nạo, phá thai trong
nữ thành niên, vị thành niên và lây nhiễm HIV/AIDS trong phụ nữ, trẻ em ngày
càng tăng. Bạo lực gia đình, tệ nạn mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em, lấy chồng
nước ngoài vì mục đích vụ lợi diễn biến phức tạp. Phân biệt đối xử với phụ nữ,
trẻ em gái vẫn còn dưới nhiều hình thức.
Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
có tỷ lệ thấp, chưa tương xứng với năng lực và sự phát triển của lực lượng lao
động nữ, nguồn cán bộ nữ hẫng hụt, ở một số lĩnh vực, tỷ lệ cán bộ nữ sụt giảm.
Công tác phụ nữ còn những mặt
yếu kém. Ðịnh hướng lãnh đạo, chính sách, phương pháp công tác vận động phụ nữ
còn thiếu cụ thể, sát hợp với từng đối tượng, khu vực, vùng, miền, chưa đáp ứng
kịp thời yêu cầu mới.
Nguyên nhân chủ yếu là do:
- Nhận thức của các cấp ủy đảng,
chính quyền ở nhiều địa phương, đơn vị về bình đẳng giới, về vai trò, năng lực của
phụ nữ còn hạn chế. Ðịnh kiến về giới còn tồn tại dai dẳng trong nhận thức chung
của xã hội do ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo và tập tục phong kiến lạc hậu từ lâu
đời.
- Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền
thiếu quan tâm chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các chủ trương của
Ðảng về công tác vận động phụ nữ, chưa chủ động nghiên cứu, dự báo và giải
quyết kịp thời các vấn đề xã hội phát sinh liên quan tới phụ nữ. Chủ trương
công tác cán bộ nữ chưa được quán triệt, thực hiện đầy đủ trong quy hoạch, tạo
nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng, đề bạt cán bộ, còn có biểu hiện
"khoán trắng" công tác phụ nữ cho hội phụ nữ.
- Việc thể chế hóa các quan
điểm, chủ trương, chính sách của Ðảng về công tác phụ nữ, cán bộ nữ chưa đầy
đủ, thiếu đồng bộ. Chính sách chăm lo, bảo vệ bà mẹ, trẻ em, xây dựng gia đình
còn nhiều bất cập.
- Hoạt động của các cấp hội liên
hiệp phụ nữ chưa giải quyết tốt một số vấn đề thực tiễn đặt ra, nhất là những
vấn đề xã hội bức xúc liên quan tới phụ nữ; việc tham mưu, đề xuất với Ðảng và
Nhà nước về công tác phụ nữ trong từng thời kỳ còn rất hạn chế. Một bộ phận phụ
nữ còn tự ti, an phận, chưa chủ động vượt khó vươn lên. Trong nội bộ phụ nữ còn
có tình trạng níu kéo, chưa ủng hộ nhau.
Ðể đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, Ðảng ta đặc biệt coi trọng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
động viên sự nỗ lực vượt bậc của toàn dân, trong đó có phụ nữ. Phải tăng cường
sự lãnh đạo của Ðảng, tiếp tục đổi mới công tác phụ nữ để phụ nữ tham gia ngày
càng nhiều hơn, chủ động hơn, đóng góp ngày càng lớn hơn cho sự phát triển của
gia đình, cộng đồng, đất nước và thực hiện bình đẳng giới. Công tác phụ nữ
trong thời gian tới cần quán triệt quan điểm, mục tiêu và tập trung thực hiện
tốt các nhiệm vụ, giải pháp sau đây:
II- Quan điểm, mục tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp
1- Quan điểm
1.1- Phát huy vai trò, tiềm năng
to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu
quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới.
1.2 - Công tác phụ nữ phải sát
hợp với từng đối tượng, vùng, miền, phát huy được tinh thần làm chủ, tiềm năng,
sức sáng tạo và khả năng đóng góp cao nhất của các tần lớp phụ nữ, góp phần tạo
nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để phát triển đất nước; đồng thời phải
chăm lo cho phụ nữ tiến bộ về mọi mặt, quan tâm đầy đủ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng để phụ nữ có điều kiện thực hiện tốt vai trò người công dân,
người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người.
1.3 - Xây dựng, phát triển vững chắc
đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách
quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Ðảng.
1.4 - Công tác phụ nữ là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và từng gia đình. Trong đó, hạt nhân
lãnh đạo là các cấp ủy đảng, trách nhiệm trực tiếp và chủ yếu là cơ quan quản
lý nhà nước các cấp, vai trò chủ thể là phụ nữ mà nòng cốt là các cấp Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam.
2- Mục tiêu
Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ
được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; có
việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần; tham
gia ngày càng nhiều hơn công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực; đóng góp
ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình. Phấn đấu để nước ta là một trong các
quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực.
3- Nhiệm vụ, giải pháp
3.1- Nâng cao nhận thức về công tác
phụ nữ và bình đẳng giới
- Quán triệt sâu sắc các quan
điểm, mục tiêu công tác phụ nữ trong tình hình mới nhằm nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị-xã hội, tạo
bước chuyển biến rõ rệt về hiệu quả công tác phụ nữ ở từng ngành, địa phương,
đơn vị.
- Các cơ quan Ðảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức xã hội, cơ quan thông tin đại chúng
tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về giới và ý thức trách
nhiệm thực hiện bình đẳng giới cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân;
lên án, đấu tranh chống tư tưởng coi thường phụ nữ, các hành vi phân biệt đối
xử, xâm hại, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Ðưa nội dung giáo dục về giới, Luật Bình
đẳng giới vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng trong các trường chính trị và các
trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
- Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,
Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam phấn đấu làm tốt vai trò nòng
cốt tham mưu và thực hiện các giải pháp cần thiết để nâng cao nhận thức cho phụ
nữ về bình đẳng giới, khắc phục tư tưởng tự ti, an phận, níu kéo nhau, nêu cao tình
thần tự chủ, đoàn kết, vượt khó vươn lên để không ngừng tiến bộ, đóng góp ngày
càng nhiều cho gia đình, xã hội.
3.2 - Xây dựng, hoàn thiện và
thực hiện tốt hệ thống luật pháp, chính sách về bình đẳng giới, tạo điều kiện
cho sự phát triển của phụ nữ.
- Triển khai thực hiện tốt Luật
Bình đẳng giới. Xây dựng, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính
sách, bảo đảm tốt hơn quyền lợi chính đáng của phụ nữ, đặc biệt trong các lĩnh vực:
lao động-việc làm, giáo dục - đào tạo, dạy nghề, doanh nghiệp, quan hệ dân sự,
đất đai, môi trường, bảo hiểm xã hội, hôn nhân-gia đình, chăm sóc sức khỏe, bảo
vệ bà mẹ-trẻ em.
Quốc hội, cơ quan nhà nước các
cấp có cơ chế để Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Ủy ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ
các cấp chủ động tham gia vào quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp
luật, chiến lược, chương trình, dự án phát triển của quốc gia, bộ, ngành, địa
phương.
- Chính phủ và các ngành chức năng
nghiên cứu, ban hành một số chính sách đặc thù nhằm tạo điều kiện cho sự phát
triển của phụ nữ. Cụ thể là:
+ Chính sách hỗ trợ phụ nữ trong
đào tạo, bồi dưỡng, tiếp cận thông tin, ứng dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật, công
nghệ mới; chính sách khuyến khích đào tạo nghề cho lao động nữ đáp ứng yêu cầu
thị trường lao động và phát huy được thế mạnh của phụ nữ. Có các giải pháp cụ
thể để tăng nhanh tỷ lệ phụ nữ được đào tạo trung cấp nghề, cao đẳng nghề, đại học,
sau đại học.
+ Chính sách khuyến khích, hỗ
trợ phụ nữ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chính sách đào tạo nghề, giải
quyết việc làm cho lao động nữ dôi dư khi cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà
nước, phụ nữ nông thôn không còn đất canh tác, phụ nữ nghèo, phụ nữ tàn tật.
Chính sách về nhà ở, chăm lo đời sống văn hóa, tinh thần cho lao động nữ làm
việc tại các khu công nghiệp tập trung.
+ Chính sách hỗ trợ, tạo điều
kiện để phụ nữ dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa xóa mù chữ, phổ
cập các cấp học giáo dục phổ thông, đào tạo nghề, xóa đói, giảm nghèo, tiếp cận
thông tin và hưởng thụ văn hóa. Chính sách hỗ trợ phụ nữ cao tuổi, phụ nữ đơn
thân, phụ nữ tàn tật có hoàn cảnh khó khăn.
- Tăng cường phổ biến, giáo dục
pháp luật và kiểm tra, giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách liên quan
đến phụ nữ và bình đẳng giới. Phát huy vai trò của Quốc hội, Mặt trận, các đoàn
thể, các tổ chức xã hội, đặc biệt là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam, Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ trong kiểm
tra, giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách đối với phụ nữ và lao động
nữ trong các thành phần kinh tế.
3.3- Xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam có sức khỏe, tri thức,
kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa, cò lòng nhân hậu.
- Tăng cường giáo dục đạo đức,
lối sống lành mạnh, có trách nhiệm với gia đình, xã hội; đấu tranh xóa bỏ các
hủ tục, tập quán lạc hậu, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; phòng, chống có
hiệu quả tệ nạn mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em, bạo lực gia đình; ngăn ngừa
tình trạng lấy chồng nước ngoài bất hợp pháp, vì vụ lợi.
- Coi trọng công tác tư vấn, hòa
giải về hôn nhân và gia đình. Thực hiện nếp sống văn minh, xây dựng tình làng nghĩa
xóm, quan tâm, giúp đỡ các gia đình khó khăn, hoạn nạn, người cao tuổi cô đơn,
người tàn tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa.
- Xây dựng hệ thống chính sách cơ
bản nhằm phát triển gia đình Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo tiêu chí "no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc". Cần chú trọng các
lĩnh vực: dân số, kế hoạch hóa gia đình; chăm sóc sức khỏe, phòng chống dịch bệnh
và HIV/AIDS; bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; phát triển các dịch vụ hỗ trợ
gia đình; cải thiện môi trường sống. Có chính sách thai sản đối với phụ nữ nghèo
không có chế độ bảo hiểm xã hội; chính sách phát triển hệ thống nhà trẻ, mẫu
giáo; nâng cao kiến thức, kỹ năng nuôi dạy con cho các bà mẹ.
- Nghiên cức và thực hiện việc giáo
dục, xây dựng gia đình "no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc" và giáo
dục phẩm chất, đạo đức người phụ nữ Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp cùng các ban, ngành, đoàn thể vận động,
hướng dẫn phụ nữ phấn đấu rèn luyện theo các tiêu chí: có sức khỏe, tri thức,
kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân hậu.
3.4- Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa
học nữ có trình độ cao, cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và
bố trí sử dụng cán bộ nữ
+ Các cấp ủy đảng có trách nhiệm
lãnh đạo xây dựng quy hoạch cán bộ nữ trong quy hoạch tổng thể về cán bộ của
Ðảng ở từng cấp, từng ngành, từng địa phương. Ðối với cán bộ nữ, đồng thời với
việc xây dựng quy hoạch, phải chăm lo đào tạo, bồi dưỡng để chủ động về nhân
sự; đề bạt, bổ nhiệm cần bảo đảm tiêu chuẩn của từng chức danh, có khả năng
hoàn thành tốt nhiệm vụ, phát huy được thế mạnh, ưu điểm của cán bộ nữ. Thực
hiện nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ về độ tuổi trong quy hoạch, đào tạo,
đề bạt và bổ nhiệm.
+ Xây dựng và thực hiện chương trình
đào tạo cán bộ nữ theo từng lĩnh vực , gắn với quy hoạch. Cần bảo đảm tỷ lệ nữ
tham gia gia các khóa đào tạo tại các trường lý luận chính trị, quản lý hành
chính nhà nước từ 30% trở lên. Thực hiện cử tuyển đào tạo cán bộ nữ trong các
dân tộc thiểu số, tôn giáo và trong các lĩnh vực có tỷ lệ cán bộ nữ quá thấp. Phổ
cập tin học cho cán bộ nữ các cấp.
+ Phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ
tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và hội đồng
nhân dân các cấp từ 35% đến 40%. Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên,
nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Ðảng,
Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới.
- Chính sách phát triển đội ngũ cán
bộ nữ
+ Xây dựng, sửa đổi, bổ sung và tổ
chức thực hiện tốt các chính sách nhằm phát triển cán bộ nữ trong nghiên cứu khoa
học, trong lãnh đạo, quản lý. Có chính sách cụ thể về quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, bổ nhiệm, luân chuyển đối với cán bộ nữ; đặc biệt quan tâm cán bộ nữ là
trí thức, công nhân, người dân tộc thiểu số, tôn giáo. Có chính sách đặc thù đối
với cán bộ nữ công tác ở vùng cao, vùng sâu, biên giới, hải đảo, là người dân
tộc thiểu số, cán bộ nữ đi học có con nhỏ.
+ Công tác tạo nguồn cán bộ nữ
cần được đặt trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của quốc gia. Ưu tiên
tuyển dụng cán bộ nữ, lao động nữ có trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học.
Chăm lo bồi dưỡng, phát triển tài năng là nữ.
Bồi dưỡng phát triển đảng viên
nữ cân đối giữa các khu vực. Chú trọng việc bố trí, phân công công tác để đảng viên
nữ có điều kiện phấn đấu, rèn luyện và trưởng thành.
Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp, cán
bộ, đảng viên nữ cần chủ động, tích cực tham mưu, giới thiệu, tạo nguồn cán bộ
nữ và giới thiệu quần chúng là phụ nữ ưu tú cho Ðảng. Khắc phục tư tưởng an phận,
tình trạng níu kéo, không ủng hộ nhau ngay trong nội bộ cán bộ nữ.
3.5- Xây dựng, củng cố Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam thực sự vững mạnh, phát huy đầy đủ vai trò nòng cốt trong công
tác vận động phụ nữ.
- Các cấp ủy đảng tăng cường lãnh
đạo, chỉ đạo toàn diện việc xây dựng, củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động của các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Phân công cấp ủy viên
có nănglực, phẩm chất tốt, có uy tín, trực tiếp phụ trách công tác Hội và ứng cử
tham gia lãnh đạo tổ chức Hội Liên hiệp phụ nữ đồng cấp.
- Các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam cần đẩy mạnh đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng
"hành chính hóa", hướng mạnh hoạt động về cơ sở, khu dân cư, chăm lo
thiết thực quyền lợi chính đáng, hợp pháp cho hội viên, không phô trương, hình
thức, không chạy theo thành tích; phát huy vai trò chủ động tham mưu, đề xuất
với Ðảng, Nhà nước về chủ trương, chính sách liên quan đến phụ nữ, thực hiện
tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội; tham gia đấu tranh phòng, chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Hội cần mở rộng tính liên hiệp, tập
hợp rộng rãi các đối tượng là phụ nữ trên nguyên tắc dân chủ, tự nguyện; đa dạng
hóa các hình thức tập hợp để phát triển hội viên trong các lĩnh vực. Có hình
thức phù hợp động viên phụ nữ Việt Nam định cư ở nước ngoài đoàn kết, phát triển,
hướng về Tổ quốc.
- Tăng cường công tác đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất chính trị, phương pháp vận động quần
chúng cho đội ngũ cán bộ Hội các cấp. Thành lập và phát triển Học viện Phụ nữ
Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu nghiên cứu khoa học về công tác phụ nữ và đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ Hội, cán bộ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
III- Tổ chức thực hiện
1- Các cấp ủy đảng có trách
nhiệm tổ chức quán triệt, phổ biến Nghị quyết đến đảng viên, xây dựng chương
trình hành động và kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết ở cấp mình.
2- Ðảng đoàn Quốc hội, Ban cán
sự đảng Chính phủ lãnh đạo cụ thể hóa nội dụng Nghị quyết thành luật pháp,
chính sách cụ thể; xây dựng chương trình hành động, chỉ đạo các bộ, ngành, các
địa phương thực hiện.
3- Ðảng đoàn Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các đoàn thể, các tổ chức xã hội xây dựng chương trình hành động thực
hiện Nghị quyết, tổ chức tốt việc phổ biến Nghị quyết trong đoàn viên, hội viên
và các tầng lớp nhân dân.
4- Các cấp ủy đảng hằng năm tiến
hành đánh giá việc thực hiện Nghị quyết; Ban Bí thư chỉ đạo sơ kết toàn quốc vào
các năm 2010, 2015 và tổng kết việc thực hiện Nghị quyết vào năm 2020.
5- Ban Dân vận Trung ương chủ trì,
phối hợp với Ðảng đoàn Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Ban Tổ chức Trung ương,
Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ðảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo dõi việc
tổ chức thực hiện Nghị quyết, hằng năm báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
|
T/M
BỘ CHÍNH TRỊ
UỶ VIÊN BCT, THƯỜNG TRỰC BAN BÍ THƯ
Trương Tấn Sang
|