Nghị quyết số 41/2004/NQ-QH11 về nhiệm vụ năm 2005 do Quốc Hội ban hành

Số hiệu 41/2004/NQ-QH11
Ngày ban hành 03/12/2004
Ngày có hiệu lực 17/01/2005
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Quốc hội
Người ký Nguyễn Văn An
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

QUỐC HỘI
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 41/2004/NQ-QH11

Hà Nội, ngày 03 tháng 12 năm 2004

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ NHIỆM VỤ NĂM 2005

QUỐC HỘI

Căn cứ vào Điều 84 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10;
Trên cơ sở xem xét Báo cáo của Chính phủ, Báo cáo của các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan hữu quan và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội;

QUYẾT NGHỊ

Quốc hội cơ bản tán thành đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2004, phương hướng, nhiệm vụ năm 2005 với các mục tiêu, chỉ tiêu, giải pháp được nêu trong báo cáo của Chính phủ, báo cáo của các cơ quan của Quốc hội và các cơ quan hữu quan; đồng thời nhấn mạnh một số vấn đề sau đây:

I- ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NĂM 2004

Năm 2004, mặc dù còn nhiều khó khăn ở trong nước và những tác động bất lợi từ ngoài nước, nền kinh tế nước ta vẫn duy trì được mức tăng trưởng khá. Hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế-xã hội đều đạt và vượt kế hoạch theo Nghị quyết của Quốc hội. Sản xuất nông nghiệp thu được những kết quả đáng khích lệ, công nghiệp tiếp tục tăng khá, dịch vụ có bước chuyển biến, xuất khẩu đạt mức tăng cao. Các nguồn lực huy động cho đầu tư phát triển đa dạng, phát huy nội lực tốt hơn đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Thu ngân sách nhà nước vượt dự toán. Một số lĩnh vực văn hóa, xã hội có tiến bộ. Công tác xóa đói, giảm nghèo đã đạt được nhiều kết quả. Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Tình hình chính trị ổn định; quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng, vai trò và vị thế của nước ta được nâng cao, quá trình đàm phán để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã có những tiến triển đáng kể.

Đạt được những kết quả trên là do sự nỗ lực phấn đấu rất lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; sự điều hành năng động, có hiệu quả của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương; sự giám sát tích cực của các cơ quan dân cử; sự đóng góp ngày càng có hiệu quả của đồng bào ta ở nước ngoài và sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế.

Tuy vậy, tình hình kinh tế-xã hội năm 2004 vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Tăng trưởng kinh tế mới đạt ở mức thấp so với mục tiêu đề ra, chất lượng, hiệu quả và tính bền vững chưa có chuyển biến rõ nét. Vốn đầu tư phát triển của Nhà nước triển khai chậm, còn dàn trải, nợ đọng và lãng phí, thất thoát lớn. Chỉ số giá tiêu dùng tăng cao tác động bất lợi đến nhiều ngành sản xuất và đời sống nhân dân. Công tác xã hội hóa các lĩnh vực xã hội thực hiện chậm và còn nhiều yếu kém; giáo dục và đào tạo còn những mặt bức xúc chậm được khắc phục. Tai nạn giao thông chưa được ngăn chặn và đẩy lùi. Tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Tệ quan liêu, tham nhũng vẫn còn nhức nhối. Đời sống của nhân dân ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai có nhiều khó khăn. Chênh lệch mức sống giữa các vùng, nhất là giữa thành thị và nông thôn còn khá lớn. Cải cách hành chính chưa có chuyển biến đáng kể. Quản lý xã hội vẫn còn nhiều bất cập…

II- MỤC TIÊU VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU CỦA NĂM 2005

1- Mục tiêu tổng quát:

Là năm cuối thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005, năm 2005 phải tạo được bước chuyển biến mạnh hơn về tốc độ và cao hơn về chất lượng tăng trưởng. Phấn đấu phát triển kinh tế nhanh gắn với nâng cao hiệu quả và tính bền vững. Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực trong và ngoài nước. Cải thiện môi trường đầu tư, sản xuất, kinh doanh. Tạo chuyển biến rõ nét trong cải cách hành chính, hoàn thiện thể chế kinh tế. Có cơ chế khuyến khích mạnh mẽ nguồn lực trong nhân dân cùng với Nhà nước chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh biên giới, biển, hải đảo.

2- Các chỉ tiêu chủ yếu:

- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 8,5%;

- Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,2%; giá trị tăng thêm tăng 3,8%;

- Giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng 16%; giá trị tăng thêm tăng 11%;

- Giá trị tăng thêm của các ngành dịch vụ tăng 8,2%;

- Chỉ số giá tiêu dùng tăng dưới 6,5%;

- Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%;

- Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bằng 36,5% GDP;

- Tạo việc làm mới cho 1,6 triệu lao động; trong đó, xuất khẩu lao động 7 vạn người;

- Số học sinh học nghề tăng 12%;

- Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 7%;

- Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống 25%;

- Giảm tỷ lệ sinh 0,4‰.


III- CÁC NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHÍNH

[...]