QUỐC HỘI
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 41/2004/NQ-QH11
|
Hà Nội, ngày 03 tháng 12 năm 2004
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ NHIỆM VỤ NĂM 2005
QUỐC HỘI
Căn cứ vào Điều
84 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi,
bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội
khóa X, kỳ họp thứ 10;
Trên cơ sở xem xét Báo cáo của Chính phủ, Báo cáo của các
cơ quan của Quốc hội, các cơ quan hữu quan và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội;
QUYẾT NGHỊ
Quốc hội cơ bản
tán thành đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2004, phương hướng, nhiệm vụ
năm 2005 với các mục tiêu, chỉ tiêu, giải pháp được nêu trong báo cáo của Chính
phủ, báo cáo của các cơ quan của Quốc hội và các cơ quan hữu quan; đồng thời nhấn
mạnh một số vấn đề sau đây:
I- ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NĂM 2004
Năm 2004, mặc dù
còn nhiều khó khăn ở trong nước và những tác động bất lợi từ ngoài nước, nền
kinh tế nước ta vẫn duy trì được mức tăng trưởng khá. Hầu hết các chỉ tiêu chủ
yếu về phát triển kinh tế-xã hội đều đạt và vượt kế hoạch theo Nghị quyết của
Quốc hội. Sản xuất nông nghiệp thu được những kết quả đáng khích lệ, công nghiệp
tiếp tục tăng khá, dịch vụ có bước chuyển biến, xuất khẩu đạt mức tăng cao. Các
nguồn lực huy động cho đầu tư phát triển đa dạng, phát huy nội lực tốt hơn đã
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Thu ngân sách nhà nước
vượt dự toán. Một số lĩnh vực văn hóa, xã hội có tiến bộ. Công tác xóa đói, giảm
nghèo đã đạt được nhiều kết quả. Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện.
Tình hình chính trị ổn định; quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội được
giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng, vai trò và vị thế của nước
ta được nâng cao, quá trình đàm phán để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) đã có những tiến triển đáng kể.
Đạt được những kết
quả trên là do sự nỗ lực phấn đấu rất lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; sự
điều hành năng động, có hiệu quả của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương; sự
giám sát tích cực của các cơ quan dân cử; sự đóng góp ngày càng có hiệu quả của
đồng bào ta ở nước ngoài và sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế.
Tuy vậy, tình hình
kinh tế-xã hội năm 2004 vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Tăng trưởng kinh tế mới
đạt ở mức thấp so với mục tiêu đề ra, chất lượng, hiệu quả và tính bền vững
chưa có chuyển biến rõ nét. Vốn đầu tư phát triển của Nhà nước triển khai chậm,
còn dàn trải, nợ đọng và lãng phí, thất thoát lớn. Chỉ số giá tiêu dùng tăng
cao tác động bất lợi đến nhiều ngành sản xuất và đời sống nhân dân. Công tác xã
hội hóa các lĩnh vực xã hội thực hiện chậm và còn nhiều yếu kém; giáo dục và
đào tạo còn những mặt bức xúc chậm được khắc phục. Tai nạn giao thông chưa được
ngăn chặn và đẩy lùi. Tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Tệ
quan liêu, tham nhũng vẫn còn nhức nhối. Đời sống của nhân dân ở vùng nông
thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai có nhiều khó khăn. Chênh lệch mức sống
giữa các vùng, nhất là giữa thành thị và nông thôn còn khá lớn. Cải cách hành
chính chưa có chuyển biến đáng kể. Quản lý xã hội vẫn còn nhiều bất cập
II- MỤC TIÊU VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU CỦA NĂM 2005
1- Mục tiêu tổng
quát:
Là năm cuối thực
hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005, năm 2005 phải tạo được bước chuyển biến mạnh hơn
về tốc độ và cao hơn về chất lượng tăng trưởng. Phấn đấu phát triển kinh tế
nhanh gắn với nâng cao hiệu quả và tính bền vững. Huy động tối đa và sử dụng có
hiệu quả mọi nguồn lực trong và ngoài nước. Cải thiện môi trường đầu tư, sản xuất,
kinh doanh. Tạo chuyển biến rõ nét trong cải cách hành chính, hoàn thiện thể chế
kinh tế. Có cơ chế khuyến khích mạnh mẽ nguồn lực trong nhân dân cùng với Nhà
nước chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể
thao. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng,
an ninh biên giới, biển, hải đảo.
2- Các chỉ tiêu chủ
yếu:
- Tổng sản phẩm
trong nước (GDP) tăng 8,5%;
- Giá trị sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,2%; giá trị tăng thêm tăng 3,8%;
- Giá trị sản xuất
công nghiệp và xây dựng tăng 16%; giá trị tăng thêm tăng 11%;
- Giá trị tăng
thêm của các ngành dịch vụ tăng 8,2%;
- Chỉ số giá tiêu
dùng tăng dưới 6,5%;
- Tổng kim ngạch
xuất khẩu tăng 16%;
- Tổng nguồn vốn đầu
tư phát triển toàn xã hội bằng 36,5% GDP;
- Tạo việc làm mới
cho 1,6 triệu lao động; trong đó, xuất khẩu lao động 7 vạn người;
- Số học sinh học
nghề tăng 12%;
- Giảm tỷ lệ hộ
nghèo xuống dưới 7%;
- Giảm tỷ lệ trẻ
em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống 25%;
- Giảm tỷ lệ sinh
0,4.
III- CÁC NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHÍNH
1. Nâng cao chất
lượng tăng trưởng kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu đầu tư gắn với mục tiêu chuyển dịch
mạnh cơ cấu kinh tế; đầu tư sản xuất, kinh doanh gắn chặt với bảo đảm nguồn
nguyên liệu và thị trường tiêu thụ. Chú trọng đổi mới công nghệ. Phát triển các
sản phẩm công nghiệp sử dụng công nghệ cao, công nghiệp phục vụ nông nghiệp,
nông thôn. áp dụng cơ chế phù hợp để các thành phần kinh tế tham gia phát triển
mạnh các dịch vụ, nhất là những dịch vụ có khả năng tạo nhanh giá trị tăng
thêm, các dịch vụ cao cấp, dịch vụ có tiềm năng và lợi thế cạnh tranh.
Áp dụng đồng bộ
các biện pháp chống dàn trải, thất thoát, lãng phí, tiêu cực trong đầu tư xây dựng
cơ bản. Triển khai thực hiện tốt Nghị quyết của Quốc hội về công tác đầu tư xây
dựng cơ bản sử dụng vốn nhà nước.
Tập trung phát triển
mạnh thị trường vốn trung hạn và dài hạn. Tăng khả năng thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Tiếp tục thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA).
Thực hiện đồng bộ
các biện pháp bình ổn giá cả, tập trung phát triển sản xuất để điều chỉnh
cung-cầu, kịp thời can thiệp bằng các biện pháp tài chính, tiền tệ, hành chính
và kinh tế khác để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư, tăng trưởng kinh tế bền
vững và cải thiện đời sống nhân dân.
Sắp xếp, đổi mới
và củng cố doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong những ngành, lĩnh vực then chốt,
trên cơ sở đó, thực hiện cổ phần hoá một cách tích cực theo chương trình, tiến
độ đã đề ra. Tập trung làm lành mạnh quan hệ tài chính trong các doanh nghiệp nhà
nước. Thực hiện cơ chế đấu thầu, đặt hàng sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ
công ích cho mọi đối tượng doanh nghiệp, không phân biệt các thành phần kinh tế.
Phấn đấu tăng thu,
triệt để tiết kiệm chi, chống phô trương hình thức. Chủ động điều hành chính
sách tiền tệ, tỷ giá và lãi suất phù hợp với biến động của thị trường. Nâng cao
chất lượng tín dụng, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát để nâng
cao khả năng an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Đẩy mạnh xuất khẩu;
quản lý chặt chẽ nhập khẩu đối với từng nhóm hàng để hạn chế nhập siêu.
2. Xây dựng chiến
lược xã hội hoá các hoạt động xã hội, đề cao trách nhiệm của chính quyền các cấp,
huy động các nguồn lực trong nhân dân, sự tham gia của các đoàn thể, các thành
phần kinh tế, các tổ chức xã hội trong việc đầu tư phát triển y tế, giáo dục,
văn hoá, khoa học, thể thao...
Nâng cao chất lượng
đào tạo nghề cho người lao động, đặc biệt là thanh niên nông thôn, bảo đảm việc
làm cho nông dân khi có đất thu hồi chuyển đổi mục đích sử dụng và đáp ứng nhu
cầu xuất khẩu lao động. Có chính sách cụ thể, nhất là về chỗ ở đối với người
lao động làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Chấn chỉnh và nâng cao
hiệu quả hoạt động bảo hiểm xã hội, triển khai các bước thực hiện Đề án cải
cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công.
Điều chỉnh tiêu
chí về đói nghèo theo hướng tương ứng với các nước trong khu vực. Tập trung giải
quyết có hiệu quả và vững chắc vấn đề xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn, vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là hộ gia đình nghèo thuộc
diện người có công, xoá bỏ tình trạng nhà tạm.
Tăng cường công
tác tuyên truyền, vận động, kiềm chế tỷ lệ tăng dân số; kịp thời ban hành các
văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh dân số.
Tăng cường quản lý
nhà nước về viện phí, giá thuốc; ưu tiên phát triển sản xuất thuốc thiết yếu
trong nước; đầu tư nâng cấp cơ sở y tế tuyến huyện và tại các vùng khó khăn,
vùng dân tộc thiểu số. Cải tiến và mở rộng các loại hình bảo hiểm y tế. Nâng
cao y đức của người thầy thuốc.
Tiếp tục thực hiện
đề án quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý ở thành
phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành phố khác. Triển khai đồng bộ các biện
pháp phòng, chống ma tuý, mại dâm.
3. Thực hiện có hiệu
quả các chương trình mục tiêu về văn hoá-thông tin; đẩy mạnh phong trào
"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá"; nâng cao đời sống văn
hoá tinh thần của nhân dân; tăng cường thanh tra, kiểm tra, chống các hoạt động
thiếu lành mạnh trong lĩnh vực văn hoá.
Tăng thêm diện phủ
sóng phát thanh-truyền hình vùng miền núi, biên giới, hải đảo; xây dựng các
chương trình phát thanh-truyền hình bằng tiếng dân tộc thiểu số. Tăng cường
trao đổi chương trình văn hoá-nghệ thuật với các nước trên thế giới.
Nâng cao chất lượng
giáo dục. Nghiên cứu điều chỉnh chiến lược giáo dục đến năm 2010 và xây dựng
chiến lược giáo dục dài hạn cho những năm tiếp theo. Triển khai thực hiện tốt
các Nghị quyết của Quốc hội về giáo dục.
Nâng cao chất lượng
chăm sóc sức khoẻ trẻ em, thực hiện có hiệu quả chủ trương khám, chữa bệnh miễn
phí cho trẻ em dưới 6 tuổi. Lồng ghép các chương trình kinh tế-xã hội với việc
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, giảm tình trạng trẻ
em lang thang, trẻ em vi phạm pháp luật.
Tăng cường giáo dục
đạo đức, phong cách thể thao; chống các hiện tượng tiêu cực trong thể thao.
Khai thác có hiệu quả cơ sở vật chất phục vụ thể dục thể thao, đặc biệt là các
công trình đã được xây dựng phục vụ SEAGames 22.
4. Đẩy mạnh nghiên
cứu khoa học, phục vụ việc hoạch định chiến lược, chính sách, kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội của cả nước, từng vùng, từng ngành. Phát triển thị trường công
nghệ; hoàn thiện các văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ; thúc đẩy phát triển
nhanh các lĩnh vực công nghệ cao và nâng cao trình độ công nghệ trong sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ. Tăng cường chuyển giao tiến bộ khoa học, công nghệ phục vụ
nông nghiệp, nông thôn. Đổi mới cơ chế tài chính đối với hoạt động khoa học và
công nghệ, cơ chế tổ chức và quản lý các cơ quan nghiên cứu khoa học; thúc đẩy
việc ứng dụng, phát huy tốt các kết quả nghiên cứu khoa học; có lộ trình tích cực
chuyển các cơ quan nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ sang hoạt động
theo mô hình doanh nghiệp. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu công nghệ cao và
phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia.
Tiếp tục hoàn thiện
hệ thống tiêu chuẩn môi trường Việt Nam. Thực hiện tốt việc đánh giá về môi trường
theo quan điểm phát triển bền vững trong các chương trình, kế hoạch, dự án phát
triển kinh tế-xã hội. Tăng cường quản lý, giám sát các hoạt động khai thác, sử
dụng tài nguyên thiên nhiên; có giải pháp tích cực phòng ngừa, xử lý ô nhiễm,
khắc phục suy thoái, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên. Đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường. Khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi,
bổ sung Luật bảo vệ môi trường. Đa dạng hoá các nguồn đầu tư cho môi trường và
có mục chi riêng trong ngân sách nhà nước dành cho hoạt động sự nghiệp môi trường.
5. Đánh giá hiệu
quả việc thực hiện các chương trình phát triển kinh tế-xã hội ở miền núi và
vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn; rà soát các cơ chế, chính
sách đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp
với tình hình thực tế. Triển khai thực hiện chương trình hỗ trợ đất sản xuất, đất
ở, nhà ở và nước sinh hoạt đối với các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo.
Triển khai thực hiện
tốt công tác định canh, định cư, ổn định sản xuất; đổi mới cách thức sản xuất,
chuyển giao công nghệ và cung cấp thông tin nhằm phát triển mạnh kinh tế hàng
hoá; thực hiện có hiệu quả chính sách đào tạo cán bộ cơ sở cho miền núi, hải đảo,
biên giới và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Đánh giá kết quả
15 năm thực hiện chế độ cử tuyển để có giải pháp phù hợp cho giai đoạn tiếp theo
nhằm tạo nguồn cán bộ cho từng dân tộc, nhất là các dân tộc chưa có cán bộ có
trình độ đại học, cao đẳng. Giữ gìn và phát triển tiếng nói, chữ viết của các
dân tộc.
6. Tiếp tục triển
khai chương trình hành động để thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới, bảo đảm gắn kết nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội với nhiệm vụ củng
cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh.
Chủ động phòng ngừa,
kịp thời phát hiện, làm thất bại những âm mưu và nhân tố gây mất ổn định chính
trị, trật tự, an toàn xã hội, đe doạ xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, xâm phạm an ninh quốc gia. Tăng cường mối quan hệ phối hợp, hiệp đồng chặt
chẽ giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, giữa các bộ, ngành và địa
phương với các lực lượng vũ trang nhân dân trong việc thực hiện có hiệu quả nhiệm
vụ quốc phòng, an ninh, phòng, chống thiên tai, dịch hoạ. Tập trung xây dựng, từng
bước nâng cao chất lượng toàn diện lực lượng vũ trang nhân dân để có đủ khả
năng và sức mạnh hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
7. Tiếp tục triển
khai các hoạt động đối ngoại với tinh thần chủ động, tích cực nhằm củng cố và
hoàn thiện các mối quan hệ ổn định lâu dài với các nước láng giềng trong khu vực,
các đối tác quan trọng hàng đầu, đồng thời mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc
tế.
Hoàn thiện cơ chế
quản lý thống nhất nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các hoạt động đối ngoại
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chú trọng công tác thông tin
tuyên truyền đối ngoại, công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài.
Hỗ trợ thông tin
thị trường và xúc tiến thương mại; hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện Chương
trình CEPT/AFTA để chủ động tham gia thị trường ASEAN. Chủ động, tích cực chuẩn
bị và bảo đảm các điều kiện để đẩy nhanh hội nhập kinh tế quốc tế.
8. Tiếp tục nâng
cao chất lượng và hiệu quả của công tác điều tra, kiểm sát, xét xử các vụ án
hình sự, bảo đảm không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Giải quyết
kịp thời, đúng pháp luật các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động,
hành chính.
Khắc phục tình trạng
vi phạm các quy định về thời hạn tố tụng, trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, vụ
án được đình chỉ điều tra vì bị can không có tội; tình trạng nhiều bản án, quyết
định bị huỷ, cải sửa; việc chậm ban hành các bản án, quyết định và việc các bản
án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được thi hành. Có
những giải pháp tích cực, kiên quyết để ngăn chặn, đẩy lùi tội phạm, tệ nạn xã
hội và tai nạn giao thông.
Khẩn trương ban
hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, bảo đảm căn cứ pháp
luật cụ thể, minh bạch trong các quan hệ xã hội, trong công tác quản lý và hoạt
động tố tụng.
Thực hiện nghiêm
Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về bồi thường
thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình
sự gây ra.
Kiện toàn, sắp xếp
lại đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp, đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao chất
lượng, ý thức trách nhiệm, phẩm chất đạo đức của đội ngũ điều tra viên, kiểm
sát viên, thẩm phán, thư ký toà án, chấp hành viên để thực hiện có hiệu quả chủ
trương cải cách tư pháp.
Kịp thời phát hiện
và xử lý nghiêm các vụ việc tham nhũng. Khẩn trương chuẩn bị trình Quốc hội xem
xét, thông qua Luật chống tham nhũng. Chính phủ phối hợp với Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức hữu quan nghiên cứu,
đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống
tham nhũng.
9. Bảo đảm quyền,
lợi ích chính đáng của nhân dân, phù hợp với thực tế khi hoạch định, ban hành
chính sách, nhất là trong việc thu hồi đất, đền bù giải phóng mặt bằng, xây dựng
công trình mới; công khai trong tổ chức thực hiện, hạn chế việc phát sinh khiếu
nại, tố cáo của công dân.
Tập trung giải quyết
dứt điểm các vụ khiếu nại tồn đọng, phức tạp, kéo dài; kịp thời giải quyết các
vụ việc khiếu nại, tố cáo mới phát sinh; tăng cường kiểm tra, giám sát việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo.
10. Đẩy nhanh tiến
trình cải cách hành chính. Rà soát và điều chỉnh các quy định hiện hành, loại bỏ
các thủ tục không hợp lý. Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng
tinh, gọn, hoạt động có hiệu quả, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ. Nâng cao đạo
đức và ý thức chấp hành kỷ luật của cán bộ, công chức. Gắn trách nhiệm với quyền
hạn và quy định cụ thể về chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, tổ
chức.
Thực hiện tốt các
Quy chế dân chủ và công tác hoà giải ở cơ sở. Tăng cường kỷ cương, kỷ luật
trong các cơ quan nhà nước. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí. Đẩy mạnh sự giám sát của nhân dân, tăng cường kiểm tra, phát hiện
và xử lý nghiêm những cán bộ, công chức vi phạm pháp luật. Nghiên cứu đổi mới
chế độ trang bị phương tiện đi lại và làm việc đối với cán bộ trong các cơ quan
nhà nước.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Chính phủ chỉ đạo,
điều hành các ngành, các cấp chủ động tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu,
chỉ tiêu, nhiệm vụ năm 2005; phấn đấu với nỗ lực cao để hoàn thành thắng lợi kế
hoạch 5 năm 2001-2005.
Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội,
đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp giám
sát chặt chẽ việc thực hiện Nghị quyết này.
Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác động
viên mọi tầng lớp nhân dân thực hiện tốt Nghị quyết của Quốc hội.
Quốc hội kêu gọi đồng
bào, chiến sỹ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài nêu cao tinh thần thi đua yêu
nước, đoàn kết, động viên mọi nguồn lực, vượt qua khó khăn, thử thách, phấn đấu
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2005.
Nghị quyết này
đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kỳ họp thứ 6 thông
qua ngày 3 tháng 12 năm 2004.