BAN
CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
-------
|
ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------------
|
Số:
36-NQ/TW
|
Hà
Nội, ngày 22 tháng 10 năm 2018
|
NGHỊ
QUYẾT HỘI NGHỊ LẦN THỨ TÁM
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHÓA XII
VỀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ BIỂN
VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2030, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2045
I- TÌNH HÌNH VÀ
NGUYÊN NHÂN
Sau 10 năm thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 khoá X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, nhận
thức của toàn hệ thống chính trị, nhân dân và đồng bào ta ở nước ngoài về vị
trí, vai trò của biển, đảo đối với phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền quốc
gia được nâng lên rõ rệt. Chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển được giữ vững;
công tác tìm kiếm cứu nạn, an toàn hàng hải cơ bản được bảo đảm; công tác đối
ngoại, hợp tác quốc tế về biển được triển khai chủ động, toàn diện. Kinh tế biển,
các vùng biển, ven biển đang trở thành động lực phát triển đất nước; hệ thống kết
cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư; đời sống vật chất và tinh thần của người dân
vùng biển được cải thiện. Nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản, phát triển nguồn
nhân lực về biển đạt được nhiều kết quả tích cực. Công tác quản lý, khai thác,
sử dụng, bảo vệ tài nguyên môi trường biển, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước
biển dâng được chú trọng. Hệ thống chính sách, pháp luật, bộ máy quản lý nhà nước
về biển, đảo từng bước được hoàn thiện và phát huy hiệu lực, hiệu quả.
Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị
quyết vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém và khó khăn, thách thức trong phát triển bền
vững kinh tế biển. Phát triển kinh tế biển chưa gắn kết hài hoà với phát triển
xã hội và bảo vệ môi trường. Công tác bảo vệ an ninh, an toàn, phối hợp tìm kiếm
cứu hộ, cứu nạn, ứng phó với sự cố môi trường trên biển còn nhiều bất cập. Một
số chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra chưa đạt được; lợi thế, tiềm năng là cửa ngõ vươn
ra thế giới chưa được phát huy đầy đủ; việc thực hiện chủ trương phát triển một
số ngành kinh tế biển mũi nhọn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Sự liên kết giữa
các vùng biển, ven biển; vùng ven biển với vùng nội địa; địa phương có biển với
địa phương không có biển và giữa các ngành, lĩnh vực còn thiếu chặt chẽ, kém hiệu
quả. Ô nhiễm môi trường biển ở nhiều nơi còn diễn ra nghiêm trọng, ô nhiễm rác
thải nhựa đã trở thành vấn đề cấp bách; các hệ sinh thái biển, đa dạng sinh học
biển bị suy giảm; một số tài nguyên biển bị khai thác quá mức; công tác ứng phó
với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, biển xâm thực còn nhiều hạn chế, bất cập.
Khoa học và công nghệ, điều tra cơ bản, phát triển nguồn nhân lực biển chưa trở
thành nhân tố then chốt trong phát triển bền vững kinh tế biển. Hợp tác quốc tế
về biển chưa hiệu quả. Khoảng cách giàu - nghèo của người dân ven biển có xu hướng
ngày càng tăng. Việc giữ gìn giá trị, phát huy bản sắc văn hoá biển chưa được
quan tâm đúng mức.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên
có nguyên nhân khách quan, song nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Nhận thức của
các cấp, các ngành, địa phương và người dân, doanh nghiệp về vai trò, vị trí của
biển, phát triển bền vững kinh tế biển chưa đầy đủ; phương thức quản lý tổng hợp,
thống nhất về biển dựa trên hệ sinh thái chưa theo kịp với yêu cầu phát triển
và xu thế thời đại. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện Nghị quyết của một
số cấp uỷ, chính quyền còn thiếu thường xuyên, quyết liệt. Chính sách, pháp luật
về biển chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, một số chủ trương lớn của Đảng chưa được thể
chế hoá kịp thời. Công tác quản lý nhà nước về biển, đảo còn nhiều bất cập.
Công tác quy hoạch, kế hoạch, đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực, vùng, địa
phương liên quan đến biển còn thiếu tính tổng thể, liên kết. Mô hình tổ chức và
công tác quản lý đối với một số tập đoàn kinh tế biển còn nhiều yếu kém, chậm
được khắc phục. Đầu tư cho nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản, phát triển nguồn
nhân lực biển còn hạn chế; công tác đào tạo, dạy nghề, hỗ trợ chuyển đổi việc
làm cho người dân ven biển chưa đáp ứng được yêu cầu.
II- QUAN
ĐIỂM, MỤC TIÊU
1. Bối cảnh,
tình hình
Dự báo trong thời gian tới, tình
hình quốc tế tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt là sự cạnh tranh chiến
lược giữa các nước lớn, tranh chấp chủ quyền ranh giới biển và sự bất đồng giữa
các nước tại Biển Đông. Ô nhiễm môi trường xuyên biên giới, biến đổi khí hậu,
nước biển dâng đã trở thành vấn đề cấp bách toàn cầu. Phát triển bền vững, hài
hoà giữa phát triển với bảo tồn biển trở thành xu thế chủ đạo. Toàn cầu hoá và
cách mạng khoa học - công nghệ tạo ra nhiều cơ hội và thách thức. Ở trong nước,
ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển bền vững; thích ứng với biến đổi khí hậu, nước
biển dâng; an ninh, trật tự, an toàn xã hội vẫn là những khó khăn, thách thức lớn.
2. Quan
điểm
(1) Thống nhất tư tưởng, nhận thức
về vị trí, vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của biển đối với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Biển là bộ phận cấu
thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao
lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt
Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh
vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm
quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tăng cường
đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hoà bình, ổn định
cho phát triển. Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam là trách nhiệm của cả
hệ thống chính trị, là quyền và nghĩa vụ của mọi tổ chức, doanh nghiệp và người
dân Việt Nam.
(2) Phát triển bền vững kinh tế
biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái
biển; bảo đảm hài hoà giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn
và phát triển, giữa lợi ích của địa phương có biển và địa phương không có biển;
tăng cường liên kết, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực theo hướng nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát huy tiềm năng, lợi thế của biển, tạo
động lực phát triển kinh tế đất nước.
(3) Giữ gìn giá trị, phát huy
truyền thống lịch sử, bản sắc văn hoá biển đi đôi với xây dựng xã hội gắn kết,
thân thiện với biển; bảo đảm quyền tham gia, hưởng lợi và trách nhiệm của người
dân đối với phát triển bền vững kinh tế biển trên cơ sở công bằng, bình đẳng,
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
(4) Tăng cường quản lý tổng hợp,
thống nhất tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, bảo tồn đa dạng sinh học, các
hệ sinh thái biển tự nhiên; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển
dâng. Đẩy mạnh đầu tư vào bảo tồn và phát triển giá trị đa dạng sinh học, phục
hồi các hệ sinh thái biển; bảo vệ tính toàn vẹn của hệ sinh thái từ đất liền ra
biển. Gắn bảo vệ môi trường biển với phòng ngừa, ngăn chặn ô nhiễm, sự cố môi
trường, tăng cường hợp tác khu vực và toàn cầu.
(5) Lấy khoa học, công nghệ tiên
tiến, hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao làm nhân tố đột phá. Ưu tiên đầu
tư ngân sách nhà nước cho công tác nghiên cứu, điều tra cơ bản, đào tạo nguồn
nhân lực về biển; kết hợp huy động các nguồn lực trong và ngoài nước. Chủ động,
nâng cao hiệu quả hội nhập, hợp tác quốc tế, ưu tiên thu hút các nhà đầu tư chiến
lược hàng đầu thế giới có công nghệ nguồn, trình độ quản lý tiên tiến trên
nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam.
3. Mục
tiêu đến năm 2030
a) Mục tiêu tổng quát
Đưa Việt Nam trở thành quốc gia
biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình
thành văn hoá sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển
dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ
biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng. Những
thành tựu khoa học mới, tiên tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy
phát triển bền vững kinh tế biển.
b) Mục tiêu cụ thể
- Các chỉ tiêu tổng hợp: Các chỉ
tiêu về quản trị biển và đại dương, quản lý vùng bờ theo chuẩn mực quốc tế đạt
mức thuộc nhóm nước trung bình cao trở lên trên thế giới. Hầu hết các hoạt động
phát triển kinh tế - xã hội liên quan đến biển, đảo được thực hiện theo nguyên
tắc quản lý tổng hợp phù hợp với hệ sinh thái biển.
- Về kinh tế biển: Các ngành kinh
tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP cả nước; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố
ven biển ước đạt 65 - 70% GDP cả nước. Các ngành kinh tế biển phát triển bền vững
theo các chuẩn mực quốc tế; kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng
phục hồi của hệ sinh thái biển.
- Về xã hội: Chỉ số phát triển
con người (HDI) của các tỉnh, thành phố ven biển cao hơn mức trung bình của cả
nước; thu nhập bình quân đầu người của các tỉnh, thành phố ven biển gấp từ 1,2
lần trở lên so với thu nhập bình quân của cả nước. Các đảo có người dân sinh sống
có hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản đầy đủ, đặc biệt là điện, nước ngọt, thông
tin liên lạc, y tế, giáo dục...
- Về khoa học, công nghệ, phát
triển nguồn nhân lực biển: Tiếp cận, tận dụng tối đa thành tựu khoa học, công nghệ
tiên tiến và thuộc nhóm nước dẫn đầu trong ASEAN, có một số lĩnh vực khoa học
và công nghệ biển đạt trình độ tiên tiến, hiện đại trên thế giới. Đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực biển, hình thành đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ
biển có năng lực, trình độ cao.
- Về môi trường, ứng phó với biến
đổi khí hậu, nước biển dâng:
Đánh giá được tiềm năng, giá trị
các tài nguyên biển quan trọng. Tối thiểu 50% diện tích vùng biển Việt Nam được
điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển ở tỉ lệ bản đồ 1: 500.000 và điều
tra tỉ lệ lớn ở một số vùng trọng điểm. Thiết lập bộ cơ sở dữ liệu số hoá về biển,
đảo, bảo đảm tính tích hợp, chia sẻ và cập nhật.
Ngăn ngừa, kiểm soát và giảm đáng
kể ô nhiễm môi trường biển; tiên phong trong khu vực về giảm thiểu chất thải nhựa
đại dương. Ở các tỉnh, thành phố ven biển, 100% chất thải nguy hại, chất thải rắn
sinh hoạt được thu gom và xử lý đạt quy chuẩn môi trường; 100% khu kinh tế, khu
công nghiệp và khu đô thị ven biển được quy hoạch, xây dựng theo hướng bền vững,
sinh thái, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, có hệ thống
xử lý nước thải tập trung, đáp ứng các quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường.
Quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh
thái biển, ven biển và hải đảo; tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt
tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia; phục hồi diện tích rừng ngập
mặn ven biển tối thiểu bằng mức năm 2000.
Năng lực dự báo, cảnh báo thiên
tai, động đất, sóng thần, quan trắc, giám sát môi trường biển, biến đổi khí hậu,
nước biển dâng, bao gồm cả thông qua việc ứng dụng công nghệ vũ trụ và trí tuệ
nhân tạo, đạt trình độ ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực. Có biện
pháp phòng, tránh, ngăn chặn, hạn chế tác động của triều cường, xâm nhập mặn,
xói lở bờ biển.
4. Tầm
nhìn đến năm 2045
Việt Nam trở thành quốc gia biển
mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp
quan trọng vào nền kinh tế đất nước, góp phần xây dựng nước ta thành nước công
nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tham gia chủ động và có trách
nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương.
III- MỘT
SỐ CHỦ TRƯƠNG LỚN VÀ KHÂU ĐỘT PHÁ
1. Một số
chủ trương lớn
(1) Phát triển kinh tế biển và
ven biển
a) Phát triển các ngành kinh tế
biển
Đến năm 2030, phát triển thành
công, đột phá về các ngành kinh tế biển theo thứ tự ưu tiên: (1) Du lịch và dịch
vụ biển; (2) Kinh tế hàng hải; (3) Khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản
biển khác; (4) Nuôi trồng và khai thác hải sản; (5) Công nghiệp ven biển; (6)
Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới. Cụ thể:
- Du lịch và dịch vụ biển: Chú trọng
đầu tư hạ tầng du lịch; khuyến khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế
tham gia phát triển du lịch sinh thái, thám hiểm khoa học, du lịch cộng đồng,
các khu du lịch nghỉ dưỡng biển chất lượng cao tại các vùng ven biển; xây dựng,
phát triển, đa dạng hoá các sản phẩm, chuỗi sản phẩm, thương hiệu du lịch biển
đẳng cấp quốc tế trên cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học, phát huy giá trị di sản
thiên nhiên, văn hoá, lịch sử đặc sắc của các vùng, miền, kết nối với các tuyến
du lịch quốc tế để Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của thế giới. Nghiên cứu
thí điểm phát triển du lịch ra các đảo, vùng biển xa bờ. Tăng cường năng lực
tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn; đẩy mạnh các hoạt động thám hiểm khoa học; chú trọng
công tác giáo dục, y tế biển... Hỗ trợ, tạo điều kiện để người dân ven biển
chuyển đổi nghề từ các hoạt động có nguy cơ xâm hại, tác động tiêu cực đến biển
sang bảo vệ, bảo tồn, tạo sinh kế bền vững, việc làm mới ổn định, nâng cao thu
nhập cho người dân.
- Kinh tế hàng hải: Trọng tâm là
khai thác có hiệu quả các cảng biển và dịch vụ vận tải biển. Quy hoạch, xây dựng,
tổ chức khai thác đồng bộ, có hiệu quả các cảng biển tổng hợp, cảng trung chuyển
quốc tế, cảng chuyên dùng gắn với các dịch vụ hỗ trợ; xây dựng hoàn thiện hạ tầng
logistics và các tuyến đường giao thông, kết nối liên thông các cảng biển với
các vùng, miền, địa phương trong nước và quốc tế. Đẩy mạnh phát triển đội tàu vận
tải biển với cơ cấu hợp lý, ứng dụng công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng dịch
vụ, đáp ứng nhu cầu thị trường vận tải nội địa, tham gia sâu vào các chuỗi cung
ứng vận tải, từng bước gia tăng, chiếm lĩnh thị phần quốc tế.
- Khai thác dầu khí và các tài
nguyên, khoáng sản biển khác: Nâng cao năng lực của ngành Dầu khí và các ngành
tài nguyên, khoáng sản biển khác; từng bước làm chủ công tác tìm kiếm, thăm dò,
khai thác, đáp ứng nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong thời kỳ mới. Đẩy mạnh
công tác tìm kiếm, thăm dò, gia tăng trữ lượng dầu khí; nghiên cứu, thăm dò các
bể trầm tích mới, các dạng hydrocarbon phi truyền thống; gắn việc tìm kiếm,
thăm dò dầu khí với điều tra, khảo sát, đánh giá tiềm năng các tài nguyên,
khoáng sản biển khác, khoáng sản biển sâu, đặc biệt là các khoáng sản có trữ lượng
lớn, giá trị cao, có ý nghĩa chiến lược. Nâng cao hiệu quả khai thác các tài
nguyên khoáng sản biển gắn với chế biến sâu; kết hợp hài hoà giữa khai thác, chế
biến với bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học biển.
- Nuôi trồng và khai thác hải sản:
Chuyển từ nuôi trồng, khai thác hải sản theo phương thức truyền thống sang công
nghiệp, ứng dụng công nghệ cao. Tổ chức lại hoạt động khai thác hải sản theo hướng
giảm khai thác gần bờ, đẩy mạnh khai thác tại các vùng biển xa bờ và viễn dương
phù hợp với từng vùng biển và khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển đi đôi với
thực hiện đồng bộ, có hiệu quả công tác đào tạo, chuyển đổi nghề cho ngư dân.
Thúc đẩy các hoạt động nuôi trồng, khai thác hải sản bền vững, tăng cường bảo vệ,
tái sinh nguồn lợi hải sản, nghiêm cấm các hoạt động khai thác mang tính tận diệt.
Hiện đại hoá công tác quản lý nghề cá trên biển; đẩy mạnh liên kết sản xuất
theo hình thức tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; xây dựng một số
doanh nghiệp mạnh tham gia khai thác hải sản xa bờ và hợp tác khai thác viễn
dương. Đầu tư nâng cấp các cảng cá, bến cá, khu neo đậu tàu thuyền, tổ chức tốt
dịch vụ hậu cần nghề cá. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong
nuôi trồng, khai thác, bảo quản, chế biến hải sản, tạo ra các sản phẩm chủ lực,
có chất lượng, giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường.
- Công nghiệp ven biển: Phải dựa
trên cơ sở quy hoạch, cân nhắc lợi thế về điều kiện tự nhiên của từng vùng, ưu
tiên phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao thân thiện với môi trường,
công nghiệp nền tảng, công nghệ nguồn. Phát triển hợp lý các ngành sửa chữa và
đóng tàu, lọc hoá dầu, năng lượng, cơ khí chế tạo, công nghiệp chế biến, công
nghiệp phụ trợ.
- Năng lượng tái tạo và các ngành
kinh tế biển mới: Thúc đẩy đầu tư xây dựng, khai thác điện gió, điện mặt trời
và các dạng năng lượng tái tạo khác. Phát triển ngành chế tạo thiết bị phục vụ
ngành công nghiệp năng lượng tái tạo, tiến tới làm chủ một số công nghệ, thiết
kế, chế tạo và sản xuất thiết bị; ưu tiên đầu tư phát triển năng lượng tái tạo
trên các đảo phục vụ sản xuất, sinh hoạt, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Quan tâm
phát triển một số ngành kinh tế dựa vào khai thác tài nguyên đa dạng sinh học
biển như dược liệu biển, nuôi trồng và chế biến rong, tảo, cỏ biển…
b) Phát triển đồng bộ, từng bước
hình thành khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị sinh thái ven biển
Tập trung xây dựng và nhân rộng
các mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái ven biển gắn với hình thành
và phát triển các trung tâm kinh tế biển mạnh. Khu kinh tế ven biển phải đóng
vai trò chủ đạo trong phát triển vùng và gắn kết liên vùng. Đổi mới tư duy
trong xây dựng và thực hiện các quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống đô thị
ven biển có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ, hiện đại theo mô
hình, tiêu chí tăng trưởng xanh, đô thị thông minh. Đẩy nhanh xây dựng hoàn thiện
kết cấu hạ tầng các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển theo hướng tiếp cận
mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư,
thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao; giải quyết tốt vấn đề môi trường, xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống
người dân.
(2) Phát triển các vùng biển dựa
trên lợi thế về điều kiện tự nhiên, hài hoà giữa bảo tồn và phát triển
Quy hoạch không gian biển theo
các vùng bảo vệ - bảo tồn, vùng đệm và vùng phát triển kinh tế - xã hội để phát
triển bền vững kinh tế biển trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế so sánh về điều
kiện tự nhiên, vị trí địa lý, bản sắc văn hoá, tính đa dạng của hệ sinh thái, bảo
đảm tính liên kết vùng, giữa địa phương có biển và không có biển.
- Vùng biển và ven biển phía Bắc
(Quảng Ninh - Ninh Bình): Tiếp tục xây dựng khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh trở
thành trung tâm kinh tế biển; là cửa ngõ, động lực phát triển vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ gắn với cảng quốc tế Lạch Huyện; phát triển Quảng Ninh trở thành
trung tâm du lịch quốc gia kết nối với các trung tâm du lịch quốc tế lớn của
khu vực và thế giới.
- Vùng biển và ven biển Bắc Trung
Bộ, Duyên hải Trung Bộ (Thanh Hoá - Bình Thuận): Phát triển các cảng biển nước
sâu trung chuyển quốc tế, cảng biển chuyên dụng gắn với các khu liên hợp công
nghiệp, dầu khí, điện, năng lượng tái tạo, công nghiệp sạch; phát triển các
trung tâm du lịch lớn; nuôi trồng, khai thác, chế biến hải sản, dịch vụ hậu cần
và hạ tầng nghề cá.
- Vùng biển và ven biển Đông Nam
Bộ (Bà Rịa - Vũng Tàu - Thành phố Hồ Chí Minh): Phát triển cảng biển container
quốc tế, dịch vụ hậu cần cảng biển, dịch vụ bảo đảm an toàn hàng hải, công nghiệp
khai thác, chế biến dầu khí, công nghiệp hỗ trợ và các dịch vụ ngành Dầu khí.
- Vùng biển và ven biển Tây Nam Bộ
(Tiền Giang - Cà Mau - Kiên Giang): Tập trung xây dựng phát triển Phú Quốc
thành trung tâm dịch vụ, du lịch sinh thái biển mạnh mang tầm quốc tế; phát triển
công nghiệp khí, chế biến khí, điện khí, năng lượng tái tạo, nuôi trồng, khai
thác hải sản, dịch vụ hậu cần, hạ tầng nghề cá; kết nối với các trung tâm kinh
tế lớn trong khu vực và thế giới.
(3) Bảo vệ môi trường, bảo tồn,
phát triển bền vững đa dạng sinh học biển; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu,
nước biển dâng và phòng, chống thiên tai
Mở rộng diện tích, thành lập mới
các khu vực bảo tồn biển trên cơ sở quy hoạch không gian biển quốc gia; chú trọng
bảo tồn đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái, đặc biệt là các rạn san
hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển; bảo đảm tính toàn vẹn
và mối quan hệ tự nhiên giữa các hệ sinh thái đất liền và biển.
Xây dựng các tiêu chí, yêu cầu kỹ
thuật nghiêm ngặt theo chuẩn quốc tế về môi trường đối với các dự án đầu tư có
nguy cơ ô nhiễm môi trường cao khu vực ven biển, bảo đảm phòng ngừa, ngăn chặn
không để xảy ra các sự cố gây ô nhiễm môi trường, giảm thiểu và xử lý hiệu quả
các nguồn gây ô nhiễm. Đầu tư xây dựng, củng cố lực lượng, trang thiết bị giám
sát, cảnh báo tự động về chất lượng môi trường, ứng phó với sự cố môi trường,
hoá chất độc hại trên biển; quản lý rác thải biển, nhất là rác thải nhựa; cải
thiện, nâng cao chất lượng môi trường biển.
Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo,
chủ động phòng, tránh và giảm nhẹ thiệt hại thiên tai, động đất, sóng thần,
thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng trên cơ sở ứng dụng khoa học,
công nghệ tiên tiến, đặc biệt là áp dụng các mô hình thông minh có khả năng
thích ứng, chống chịu với thiên tai và tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu.
Đẩy mạnh các biện pháp phòng, chống biển xâm thực, xói lở bờ biển, ngập lụt,
xâm nhập mặn...
(4) Nâng cao đời sống nhân dân,
xây dựng văn hoá biển, xã hội gắn bó, thân thiện với biển
Nâng cao đời sống, bảo đảm an
ninh, an toàn cho dân cư vùng ven biển, trên đảo và những người lao động trên
biển. Chú trọng phát triển các thiết chế văn hoá cho cộng đồng dân cư biển và
ven biển; phát huy bản sắc, giá trị lịch sử và văn hoá dân tộc, tri thức tốt đẹp
trong ứng xử với biển, coi đây là nền tảng quan trọng để xây dựng văn hoá biển.
Bảo tồn không gian văn hoá, kiến trúc và di sản thiên nhiên. Nâng cao nhận thức
về biển và đại dương, xây dựng xã hội, ý thức, lối sống, hành vi văn hoá gắn
bó, thân thiện với biển. Phát huy tinh thần tương thân tương ái của cộng đồng
dân cư vùng biển, ven biển. Bảo đảm quyền tiếp cận, tham gia, hưởng lợi và
trách nhiệm của người dân đối với biển một cách công bằng, bình đẳng.
(5) Bảo đảm quốc phòng, an ninh,
đối ngoại và hợp tác quốc tế
Xây dựng lực lượng vũ trang cách
mạng chính quy, tinh nhuệ theo hướng hiện đại, ưu tiên hiện đại hoá một số quân
chủng, binh chủng, lực lượng thực thi pháp luật trên biển; không ngừng củng cố,
tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân khu vực
biển; bảo đảm năng lực xử lý tốt các tình huống trên biển, giữ vững độc lập, chủ
quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia trên các vùng biển.
Nâng cao năng lực ứng phó với các mối đe doạ an ninh truyền thống và phi truyền
thống, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu lợi dụng các vấn đề về biển, đảo để chống phá. Kiên trì xây dựng và
duy trì môi trường hoà bình, ổn định và trật tự pháp lý trên biển, tạo cơ sở
cho việc khai thác và sử dụng biển an toàn, hiệu quả. Tăng cường và mở rộng
quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế, chủ động tham gia và đóng góp tích cực vào
nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong việc bảo tồn, sử dụng bền vững biển và
đại dương; tranh thủ tối đa các nguồn lực, sự hỗ trợ quốc tế để nâng cao năng lực
quản lý và khai thác biển, trong đó chú trọng các lĩnh vực khoa học, công nghệ,
tri thức và đào tạo nguồn nhân lực.
2. Một số
khâu đột phá
(1) Hoàn thiện thể chế phát triển
bền vững kinh tế biển, ưu tiên hoàn thiện hành lang pháp lý, đổi mới, phát triển
mô hình tăng trưởng xanh, bảo vệ môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, sức
cạnh tranh quốc tế của các ngành kinh tế biển, các vùng biển, ven biển; hoàn
thiện cơ chế quản lý tổng hợp và thống nhất về biển. Rà soát, điều chỉnh, bổ
sung và lập mới các quy hoạch liên quan đến biển, bảo đảm tính liên kết, đồng bộ
giữa các ngành, địa phương.
(2) Phát triển khoa học, công nghệ
và đào tạo nguồn nhân lực biển chất lượng cao, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, tận
dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, khoa học, công nghệ mới, thu hút
chuyên gia, nhà khoa học hàng đầu, nhân lực chất lượng cao.
(3) Phát triển kết cấu hạ tầng đa
mục tiêu, đồng bộ, mạng lưới giao thông kết nối các trung tâm kinh tế lớn của cả
nước, các khu công nghiệp, khu đô thị, các vùng biển với các cảng biển dựa trên
hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, kết nối chiến lược Bắc - Nam, Đông - Tây giữa
các vùng trong nước và với quốc tế.
IV- CÁC
GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát triển bền vững biển,
tạo đồng thuận trong toàn xã hội
Nâng cao nhận thức, tăng cường sự
lãnh đạo của các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền trong tổ chức thực hiện, kiểm
tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện các chủ trương, giải pháp về phát
triển bền vững kinh tế biển. Nâng cao hiệu quả, đa dạng hoá các hình thức, nội
dung tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về biển,
đảo, chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam trong toàn hệ thống
chính trị, trong nhân dân, đồng bào ta ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế; khẳng
định chủ trương nhất quán của Việt Nam là duy trì môi trường hoà bình, ổn định,
tôn trọng luật pháp quốc tế trên biển. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, tổ chức đoàn thể các cấp trong công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp
nhân dân giám sát và phản biện xã hội việc thực hiện Nghị quyết.
2. Hoàn thiện thể chế, chính
sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về phát triển bền vững kinh tế biển
Rà soát, hoàn thiện hệ thống
chính sách, pháp luật về biển theo hướng phát triển bền vững, bảo đảm tính khả
thi, đồng bộ, thống nhất, phù hợp với chuẩn mực luật pháp và điều ước quốc tế
mà Việt Nam tham gia. Tạo hành lang pháp lý thuận lợi để huy động các nguồn lực
trong và ngoài nước cho đầu tư xây dựng hạ tầng, phát triển khoa học, công nghệ,
nguồn nhân lực và chuyển giao tri thức về biển. Tích cực tham gia và chủ động
thúc đẩy hình thành cơ chế toàn cầu và khu vực liên quan đến biển và đại dương.
Kiện toàn hệ thống cơ quan quản
lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển từ Trung ương đến địa phương bảo đảm
hiện đại, đồng bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, chuyên môn cao. Nâng
cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan, giữa Trung ương với địa phương về công
tác biển, đảo. Kiện toàn cơ quan điều phối liên ngành chỉ đạo thống nhất việc
thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển do Thủ tướng Chính phủ đứng
đầu; tăng cường năng lực cho Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ là cơ quan thường trực giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quản lý nhà
nước tổng hợp và thống nhất về biển, đảo.
Kiện toàn mô hình tổ chức, nâng
cao năng lực quản lý các đảo, quần đảo và vùng ven biển. Thực hiện bố trí dân
cư trên các đảo gắn với chuyển đổi mô hình tổ chức sản xuất theo hướng thân thiện
với biển và môi trường biển.
Rà soát, bổ sung và xây dựng mới
đồng bộ các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan đến biển, đảo theo hướng
quản lý tổng hợp, phù hợp với hệ sinh thái biển, bảo đảm sự gắn kết hài hoà, đồng
bộ giữa bảo tồn và phát triển các vùng đất liền, vùng ven bờ, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa. Khẩn trương xây dựng Quy hoạch không gian biển quốc
gia, Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ.
3. Phát triển khoa học, công nghệ
và tăng cường điều tra cơ bản biển
Thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, ứng dụng
các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến; đẩy mạnh nghiên cứu, xác lập luận
cứ khoa học cho việc hoạch định, hoàn thiện chính sách, pháp luật về phát triển
bền vững kinh tế biển.
Ưu tiên đầu tư cho công tác điều
tra cơ bản, nghiên cứu khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực biển; hình
thành các trung tâm nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học biển, khai thác đáy
biển sâu, công nghệ vũ trụ trong giám sát biển đạt trình độ tiên tiến trong khu
vực. Đánh giá tiềm năng và lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên, hệ sinh
thái và các ngành, lĩnh vực kinh tế biển như hàng hải, khai thác, nuôi trồng,
chế biến thuỷ, hải sản, năng lượng tái tạo, thông tin và công nghệ số, sinh dược
học biển, thiết bị tự vận hành ngầm… Xây dựng và thực hiện có hiệu quả Chương
trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; mở rộng
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong điều tra, nghiên cứu ở các vùng biển quốc
tế. Đầu tư đội tàu nghiên cứu biển tiên tiến, thiết bị ngầm dưới biển có khả
năng nghiên cứu ở các vùng biển sâu.
4. Đẩy mạnh giáo dục, đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực biển
Tăng cường giáo dục, nâng cao nhận
thức, kiến thức, hiểu biết về biển, đại dương, kỹ năng sinh tồn, thích ứng với
biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phòng, tránh thiên tai cho học sinh, sinh
viên trong tất cả các bậc học, cấp học. Phát triển nguồn nhân lực biển chất lượng
cao phù hợp với nhu cầu thị trường; có cơ chế, chính sách đặc biệt thu hút nhân
tài, từng bước hình thành đội ngũ các nhà quản lý, nhà khoa học, chuyên gia đạt
trình độ quốc tế, có chuyên môn sâu về biển và đại dương.
Có cơ chế hỗ trợ, nâng cao chất
lượng đào tạo, phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo nguồn nhân lực biển đạt trình
độ tiên tiến trong khu vực. Thực hiện có hiệu quả công tác đào tạo nghề, đáp ứng
yêu cầu lao động của các ngành kinh tế biển và việc chuyển đổi nghề của người
dân.
5. Tăng cường năng lực bảo đảm quốc
phòng, an ninh, thực thi pháp luật trên biển
Hoàn thiện tổ chức các lực lượng
bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực thi pháp luật trên biển. Đầu tư trang thiết bị
hiện đại, chú trọng đào tạo nhân lực, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật và
tăng cường khả năng hiệp đồng, tác chiến của các lực lượng tham gia bảo vệ chủ
quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các quyền lợi chính đáng, hợp pháp của
đất nước. Xây dựng lực lượng công an khu vực ven biển, đảo, các khu đô thị, khu
kinh tế, khu công nghiệp ven biển vững mạnh, làm nòng cốt bảo đảm an ninh chính
trị, trật tự, an toàn xã hội vùng biển, đảo. Nâng cao năng lực hoạt động của
các lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ phòng, tránh và giảm nhẹ thiệt hại thiên
tai, cứu nạn, cứu hộ, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng khu vực biển,
đảo; bảo đảm an ninh, an toàn cho dân cư, người lao động và các hoạt động kinh
tế khu vực biển; xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận
an ninh nhân dân vùng biển, đảo.
6. Chủ động tăng cường và mở rộng
quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển
Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá; chủ động, nâng cao hiệu quả hội
nhập quốc tế; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền và các lợi ích hợp
pháp, chính đáng của quốc gia trên biển, đồng thời chủ động, tích cực giải quyết,
xử lý các tranh chấp, bất đồng trên Biển Đông bằng các biện pháp hoà bình trên
cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của
Liên hợp quốc về Luật Biển 1982; giữ gìn môi trường hoà bình, ổn định và hợp
tác để phát triển. Tăng cường quan hệ với các đối tác chiến lược, đối tác toàn
diện và các nước bạn bè truyền thống, các nước có tiềm lực về biển, các nước có
chung lợi ích trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có
lợi và phù hợp với luật pháp quốc tế. Chủ động, tích cực tham gia các diễn đàn
quốc tế và khu vực, nhất là các hoạt động hợp tác biển trong khuôn khổ ASEAN;
phối hợp với các nước thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các
bên trên Biển Đông (DOC), thúc đẩy ký Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC).
Thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc
tế về quản lý, sử dụng, bảo tồn bền vững biển, đại dương; thực hiện nghiêm túc
các điều ước, thoả thuận khu vực và quốc tế về biển, đại dương mà Việt Nam đã
tham gia; nghiên cứu tham gia các điều ước quốc tế quan trọng về biển, trước mắt
ưu tiên các lĩnh vực về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa
học biển; đẩy mạnh tham gia nghiên cứu khoa học, khảo sát, thăm dò, khai thác
tài nguyên tại các vùng biển quốc tế. Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác, tranh thủ sự hỗ
trợ của các đối tác, các tổ chức quốc tế và khu vực để phát triển nguồn nhân lực,
cơ sở hạ tầng vùng biển, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại vào các ngành
kinh tế biển, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai và thích ứng với biến đổi
khí hậu, nước biển dâng.
7. Huy động nguồn lực, khuyến
khích các thành phần kinh tế đầu tư cho phát triển bền vững biển, xây dựng các
tập đoàn kinh tế biển mạnh
Đẩy mạnh thu hút nguồn lực từ các
thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Chủ động thu hút các nhà đầu tư lớn, có công nghệ nguồn, trình độ quản lý tiên
tiến từ các nước phát triển. Ưu tiên đầu tư ngân sách nhà nước cho phát triển
các huyện đảo, xã đảo tiền tiêu, xa bờ; xã hội hoá đầu tư kết cấu hạ tầng biển,
đảo, các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển. Khuyến khích phát triển các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các tập đoàn kinh tế biển mạnh hoạt
động sản xuất kinh doanh trên biển, đặc biệt là ở các vùng biển xa bờ, viễn
dương. Tiếp tục cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước thuộc các ngành kinh tế biển,
bảo đảm nâng cao năng lực quản trị, hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh
tranh.
V- TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
1. Các tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban
đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương tổ chức học tập,
quán triệt sâu sắc nội dung Nghị quyết; xây dựng và tổ chức thực hiện chương
trình, kế hoạch hành động với các mục tiêu, tiêu chí, nhiệm vụ, giải pháp, nguồn
lực, cơ chế kiểm tra, giám sát, cơ quan chịu trách nhiệm và lộ trình chi tiết để
cụ thể hoá, thể chế hoá Nghị quyết trong phạm vi trách nhiệm của cơ quan, tổ chức
mình; tăng cường lãnh đạo, tạo sự thống nhất cả về nhận thức và hành động trong
việc triển khai thực hiện Nghị quyết.
2. Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo
công tác xây dựng luật, pháp lệnh, ưu tiên các dự án luật trực tiếp phục vụ triển
khai thực hiện Nghị quyết; tăng cường giám sát của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội đối với phát triển bền vững
kinh tế biển Việt Nam.
3. Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ
đạo ban hành kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm, cụ thể hoá các quan điểm, mục
tiêu và định hướng chiến lược của Nghị quyết; xác định rõ các nhiệm vụ cấp
bách, nhiệm vụ thường xuyên, có lộ trình và phân công cụ thể. Tăng cường năng lực,
vai trò quản lý nhà nước, xây dựng cơ chế điều phối liên ngành trong quản lý
nhà nước về biển, đảo. Lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, bộ, ngành, địa phương rà
soát, điều chỉnh, bổ sung các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình
phát triển có liên quan; hoàn thiện đồng bộ các văn bản dưới luật, cơ chế,
chính sách phát triển bền vững kinh tế biển phù hợp với tình hình và điều kiện
của mỗi vùng, miền, địa phương; thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá tình
hình thực hiện.
4. Ban Tuyên giáo Trung ương chủ
trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức việc học tập, quán triệt, tuyên
truyền thực hiện Nghị quyết; đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong
nhân dân về vị trí, vai trò của biển và Chiến lược phát triển bền vững kinh tế
biển Việt Nam.
5. Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh vận động các tầng
lớp nhân dân tích cực tham gia, giám sát việc thực hiện Nghị quyết.
6. Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với
các cơ quan liên quan thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai
tổ chức thực hiện Nghị quyết và định kỳ sơ kết, tổng kết, báo cáo Bộ Chính trị,
Ban Bí thư.