Nghị quyết 32/NQ-HĐND năm 2024 về giải pháp quản lý đầu tư dự án sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài và công tác quyết toán dự án đầu tư công trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Số hiệu 32/NQ-HĐND
Ngày ban hành 11/07/2024
Ngày có hiệu lực 11/07/2024
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Tỉnh Quảng Nam
Người ký Trần Xuân Vinh
Lĩnh vực Đầu tư

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NAM
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 32/NQ-HĐND

Quảng Nam, ngày 11 tháng 7 năm 2024

 

NGHỊ QUYẾT

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ ĐẦU TƯ CÁC DỰ ÁN SỬ DỤNG VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA), VỐN VAY ƯU ĐÃI CỦA NHÀ TÀI TRỢ NƯỚC NGOÀI VÀ QUYẾT TOÁN CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
KHÓA X, KỲ HỌP THỨ HAI MƯƠI BỐN

Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;

Căn cứ Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân ngày 20 tháng 11 năm 2015;

Trên cơ sở xem xét Báo cáo số 124/BC-ĐGS ngày 09 tháng 7 năm 2024 của Đoàn giám sát Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh về giám sát chuyên đề tình hình quản lý đầu tư các dự án sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài và công tác quyết toán các dự án đầu tư công trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2020 - 2023; ý kiến thảo luận của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh tại kỳ họp.

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Thống nhất nội dung Báo cáo số 124/BC-ĐGS ngày 09 tháng 7 năm 2024 của Thường trực HĐND tỉnh về giám sát chuyên đề tình hình quản lý đầu tư các dự án sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài và công tác quyết toán các dự án đầu tư công trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2020 - 2023 với các nội dung chủ yếu sau:

1. Tình hình quản lý đầu tư các dự án sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài

a) Kết quả đạt được

Trong những năm qua, trong điều kiện nguồn thu ngân sách nhà nước của tỉnh còn hạn chế, Ủy ban nhân dân tỉnh đã tăng cường công tác chỉ đạo, phối hợp xúc tiến thu hút, đề xuất các dự án sử dụng vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài nhằm bổ sung nguồn lực cho đầu tư phát triển. Nguồn vốn ODA được ưu tiên cho các dự án có quy mô lớn, có tính chất động lực, liên vùng. Các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng cơ bản bảo đảm tính đồng bộ, phù hợp với quy hoạch, tuân thủ theo đúng quy định, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện, bền vững, cải thiện đời sống người dân; nâng cao sức cạnh tranh, thu hút đầu tư của tỉnh.

Giai đoạn 2020-2023, trên địa bàn tỉnh thực hiện 21 dự án gồm các lĩnh vực: 01 dự án giáo dục, đào tạo và dạy nghề; 02 dự án y tế, dân số và gia đình; 05 dự án bảo vệ môi trường; 07 dự án nông nghiệp và phát triển nông thôn; 05 dự án giao thông đường bộ; 02 dự án công nghiệp điện năng. Tổng kế hoạch vốn phân bổ cho các dự án là 4.456.608 triệu đồng, gồm: Vốn ODA là 3.657.776 triệu đồng (ngân sách trung ương cấp phát là 2.144.568 triệu đồng, ngân sách tỉnh vay lại 1.513.209 triệu đồng); vốn đối ứng 798.831 triệu đồng (ngân sách trung ương 99.667 triệu đồng, ngân sách tỉnh 699.164 triệu đồng); đã giải ngân 3.159.617 triệu đồng, đạt 71% so với kế hoạch vốn bố trí, gồm: Vốn ODA 2.397.723 triệu đồng, đạt 66% (ngân sách trung ương cấp phát 1.258.826 triệu đồng, ngân sách tỉnh vay lại là 1.138.897 triệu đồng); vốn đối ứng là 761.894 triệu đồng, đạt 95% (ngân sách trung ương là 93.814 triệu đồng, ngân sách tỉnh là 668.080 triệu đồng).

b) Những tồn tại, hạn chế

- Công tác phối hợp đề xuất dự án, chuẩn bị đầu tư một số dự án chưa phân tích, dự lường hết những nhân tố ảnh hưởng tiêu cực, kéo dài thời gian hoàn thành các dự án so với hiệp định được ký kết, làm tăng chi phí lãi vay, phí cam kết, giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.

- Việc lựa chọn hạng mục, dự án thành phần sử dụng vốn vay còn phụ thuộc vào tiêu chí của nhà tài trợ, làm hạn chế tính chủ động của chủ đầu tư.

- Quá trình tiếp cận nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài còn nhiều khó khăn, trong khi đó việc lập kế hoạch giải ngân vốn của các chủ đầu tư sử dụng vốn đôi lúc chưa phù hợp với tiến độ thực hiện dự án. Tỷ lệ giải ngân chưa đạt yêu cầu. Một số dự án giải ngân không hết phải hủy dự toán, nộp trả lại ngân sách trung ương, hoàn trả lại nguồn vốn vay, gây lãng phí nguồn vốn, tốn phí cam kết, trả lãi.

- Tiến độ triển khai thực hiện dự án còn chậm so với kế hoạch; nhiều dự án phải điều chỉnh kéo dài thời gian thực hiện, thời gian bố trí vốn, gia hạn hiệp định vay. Trong đó, một số dự án phát sinh các chi phí liên quan, tăng tổng mức đầu tư. Một số dự án do vướng bồi thường, giải phóng mặt bằng, phải dừng kỹ thuật một số hạng mục đầu tư, làm giảm hiệu quả đầu tư so với mục tiêu dự án.

- Công tác phối hợp giữa địa phương, chủ đầu tư, Bộ, ngành trung ương có lúc chưa chặt chẽ, nhất là các dự án có sự tham gia của nhiều địa phương dẫn đến việc tính toán, xác định và trả nợ các khoản vay gặp nhiều khó khăn; có trường hợp xác định giá trị trả nợ không chính xác, thiếu đồng bộ, làm phát sinh phí trả lãi do chậm nộp.

- Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa thường xuyên, nhất là theo dõi, đánh giá hiệu quả sau đầu tư. Kết quả quản lý thường chỉ được đánh giá qua tiến độ, mức độ hoàn thành mà chưa xem xét toàn diện đến hiệu quả đầu tư sau khi công trình được đưa vào vận hành, khai thác.

c) Nguyên nhân

- Hệ thống pháp luật, chính sách liên quan đến lĩnh vực vốn ODA và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài chưa hoàn thiện. Quy trình, thủ tục trong công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện dự án, cơ chế giải ngân, gia hạn thời gian thực hiện các dự án, gia hạn hiệp định vay còn phức tạp, kéo dài, mất nhiều thời gian, làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án.

- Tình hình biến động tăng giá cả vật tư, vật liệu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19; tỷ giá thay đổi làm ảnh hưởng đến tổng mức đầu tư dự án do dự án được phê duyệt bằng đồng ngoại tệ hoặc vốn vay bằng ngoại tệ, gây nhiều khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án.

- Một số chủ đầu tư thiếu tập trung xây dựng kế hoạch tổng thể triển khai các dự án, chưa phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm trong việc tổ chức và phối hợp thực hiện là một trong những nguyên nhân dẫn đến dự án kéo dài, điều chỉnh thời gian, chậm giải ngân, hoàn trả lại kinh phí, trả nợ lãi, phí. Năng lực một số cán bộ quản lý dự án còn hạn chế; việc tổ chức lấy ý kiến của Nhân dân trong vùng ảnh hưởng thiếu chặt chẽ; còn bị động trong phối hợp giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện, nhất là liên quan đến bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư. Công tác đào tạo, nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý dự án ODA và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài chưa được thường xuyên.

- Nguồn nguyên liệu chưa đáp ứng nhu cầu cho các dự án trên địa bàn tỉnh. Giá vật liệu do liên sở ban hành thấp hơn so với giá bán thực tế tại mỏ nhưng chưa được điều chỉnh kịp thời. Công tác cấp phép khai thác mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường còn nhiều bất cập, tốn nhiều thời gian, là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công, giải ngân của các dự án.

2. Công tác quyết toán các dự án đầu tư công trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2020 - 2023 a) Kết quả đạt được

Giai đoạn 2020-2023 có 221 dự án đã được phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành, với tổng giá trị chủ đầu tư đề nghị phê duyệt quyết toán 7.637.724,8 triệu đồng, giá trị được phê duyệt quyết toán: 7.635.449,1 triệu đồng (chênh lệch 2.274,7 triệu đồng); trong đó, có 125 dự án hoàn thành đã được tất toán tài khoản, 96 dự án hoàn thành được phê duyệt quyết toán nhưng chưa tất toán.

b) Những tồn tại, hạn chế

- Một số chủ đầu tư chưa chấp hành nghiêm quy định về thời gian lập hồ sơ quyết toán dự án hoàn thành; chất lượng hồ sơ gửi thẩm tra, phê duyệt quyết toán chưa cao (chưa tổng hợp đầy đủ theo quy định tại Nghị định số 99/2021/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Chính phủ); chưa kiểm soát chặt chẽ năng lực và khối lượng thực hiện của các đơn vị tư vấn, thi công trong thực hiện hợp đồng; thiếu trách nhiệm trong công tác quyến toán dự án đã hoàn thành đưa vào sử dụng; chưa kịp thời xử lý dứt điểm các vấn đề còn tồn đọng của dự án, nhất là khi chuyển giao chủ đầu tư mới, việc giao nhận giữa các bên không rõ ràng, không đầy đủ hồ sơ, gây khó khăn trong việc hoàn chỉnh hồ sơ, thủ tục, xử lý về sau.

[...]