I. TÌNH HÌNH TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA
Ngành thanh tra được thành lập lại
và hoạt động theo Nghị định số 165-CP ngày 31-8-1970 và Nghị định số 1-CP ngày
3-1-1977 của Hội đồng Chính phủ.
Tổ chức thanh tra chuyên trách
đã được xây dựng ở 40 tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương, ở hầu
hết các huyện, quận và các ngành quản lý kinh tế, sự nghiệp ở Trung ương và
tỉnh, thành phố. Tổ chức thanh tra nhân dân được phát triển ở nhiều xã, phường,
tổ chức thanh tra công nhân phát triển ở nhiều đơn vị cơ sở sản xuất, kinh
doanh, sự nghiệp.
Hoạt động thanh tra đã có tác dụng
phục vụ sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước góp phần phát huy những nhân tố tích
cực, ngăn ngừa và đấu tranh chống những việc làm sai trái trong quá trình chấp
hành đường lối và chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Tuy nhiên, kết quả đạt được của công
tác thanh tra còn hạn chế so với yêu cầu của nhiệm vụ góp phần giải quyết những
vấn đề cấp bách của sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, tăng cường quản lý
kinh tế, quản lý xã hội, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Nguyên nhân của tình hình kể trên
là bản thân ngành thanh tra chưa phát huy đầy đủ chức năng của mình, chưa có
những biện pháp làm cho hoạt động thanh tra có hiệu lực mạnh mẽ và thiết thực
trên các lĩnh vực quản lý kinh tế, xã hội và thực hiện kế hoạch Nhà nước; tổ
chức bộ máy thanh tra chưa thể hiện tính chất hệ thống, chưa phát huy sức mạnh
của toàn ngành, đội ngũ cán bộ thanh tra chưa được tăng cường tương xứng với
yêu cầu của nhiệm vụ. Đồng thời cũng cần nhấn mạnh tới sự nhận thức chưa đẩy đủ
của nhiều cán bộ lãnh đạo các ngành, các cấp đối với vị trí và yêu cầu của công
tác thanh tra, dẫn đến việc sử dụng chưa đầy đủ chức năng và quyền hạn của các
tổ chức thanh tra; chưa coi trọng đúng mức vai trò và hiệu lực của thanh tra
nhân dân trong giám sát và kiểm tra.
Trước tình hình và nhiệm vụ mới của
sự nghiệp cách mạng, tăng cường tổ chức cải tiến công tác, nâng cao chất lượng
hoạt động, nâng cao hiệu lực thanh tra trở thành một đòi hỏi cấp bách nhằm phục
vụ đắc lực cho sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, góp phần thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong những năm 1980.
II. TĂNG CƯỜNG
TỔ CHỨC THANH TRA NÂNG CAO HIỆU LỰC CỦA THANH TRA
1. Tính chất và
vị trí của tổ chức thanh tra.
Thanh tra là một khâu không thể thiếu
trong công tác lãnh đạo. Đường lối chủ trương của Đảng được Nhà nước cụ thể hoá
bằng các chủ trương chính sách và bằng việc tổ chức thực hiện; đồng thời phải
thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các chủ trương chính sách đã đề
ra. Mặt khác đứng về Nhà nước và xã hội phải tăng cường việc xây dựng tổ chức
ngành thanh tra.
Tổ chức thanh tra phải là một công
cụ có hiệu lực của Nhà nước chuyên chính vô sản, đồng thời là một hình thức tổ
chức của quần chúng để thực hiện quyền làm chủ tập thể của mình trong việc kiểm
tra giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước.
Theo tinh thần ấy tổ chức và hoạt
động thanh tra phải thể hiện được tính chất Nhà nước và tính chất nhân dân,
phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật, giữ vững tính khách quan, trung thực, có
tính chiến đấu cao; nhằm mục đích phát huy mặt đúng, ngăn ngừa, sửa chữa cái
sai, làm cho chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được chấp
hành nghiêm chỉnh và có hiệu quả thiết thực.
2. Tổ chức
ngành thanh tra.
a. Hệ thống
tổ chức của ngành thanh tra.
Hệ thống thanh tra các cấp gồm Uỷ
ban thanh tra Nhà nước Trung ương; Uỷ ban thanh tra Nhà nước cấp tỉnh, thành phố,
huyện, quận, và cấp tương đương; Ban thanh tra nhân dân cấp cơ sở. Đó là một hệ
thống tổ chức thanh tra được quản lý và chỉ đạo tập trung thống nhất từ Trung
ương đến cơ sở.
Uỷ ban thanh tra Nhà nước Trung ương,
thay mặt Hội đồng Bộ trưởng có chức năng tổ chức, quản lý và chỉ đạo công tác
thanh tra, kiểm tra, tiến hành thanh tra, công tác của các ngành, các cấp; đồng
thời trực tiếp quản lý và chỉ đạo cả hệ thống tổ chức thanh tra.
Uỷ ban thanh tra Nhà nước tỉnh, thành
phố, huyện, quận và cấp tương đương là một cấp của hệ thống thanh tra và là một
bộ phận của cơ quan lãnh đạo chính quyền cùng cấp. Vì vậy nó chịu sự chỉ đạo
của Uỷ ban thanh tra Nhà nước cấp trên; đồng thời có trách nhiệm thi hành những
nghị quyết và báo cáo kết quả hoạt động của mình trước Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân cùng cấp.
Ban thanh tra
nhân dân là tổ chức thanh tra của quần chúng ở cơ sở.
Thành viên của Ban thanh tra nhân
dân xã, phường, thị trấn do Hội nghị liên tịch giữa Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
với đại diện của Uỷ ban Mặt trận tổ quốc và của các đoàn thể nhân dân cùng cấp
lựa chọn và trình ra hội nghị Hội đồng nhân dân quyết định. Ban thanh tra nhân
dân xã, phường, thị trấn phải báo cáo kết quả hoạt động của mình trước Hội đồng
nhân dân cùng cấp.
Thành viên của Ban thanh tra nhân
dân các cơ sở sản xuất, kinh doanh, sự nghiệp, hành chính do Hội nghị công nhân,
viên chức cử. Ban thanh tra nhân dân các cơ sở phải báo cáo kết quả hoạt động
của mình trước hội nghị công nhân, viên chức của đơn vị cơ sở. Trong khi hoạt
động, các Ban thanh tra nhân dân này phải phối hợp chặt chẽ với Ban thanh tra
ngành của cấp quản lý trực tiếp đơn vị cơ sở.
Uỷ ban thanh
tra Nhà nước Trung ương sẽ quy định cụ thể về tổ chức, nội dung và phương thức
hoạt động của thanh tra nhân dân nhằm phát triển mạnh mẽ và nâng cao chất lượng
hoạt động của tổ chức này.
b. Thành phần, cấu tạo và việc thành
lập Uỷ ban thanh tra Nhà nước các cấp:
- Uỷ ban thanh tra Nhà nước Trung
ương có Chủ nhiệm và từ 4 đến 5 Phó chủ nhiệm; Chủ nhiệm Uỷ ban thanh tra Nhà
nước Trung ương là thành viên của Hội đồng Bộ trưởng.
- Uỷ ban thanh tra Nhà nước tỉnh,
thành phố có Chủ nhiệm và từ 2 đến 3 Phó chủ nhiệm; Chủ nhiệm Uỷ ban thanh tra
Nhà nước, tỉnh thành phố là thành viên của Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố.
- Uỷ ban thanh tra Nhà nước huyện,
quận có Chủ nhiệm và từ 1 đến 2 Phó chủ nhiệm; Chủ nhiệm Uỷ ban thanh tra Nhà
nước huyện, quận là thành viên của Uỷ ban nhân dân huyện, quận.
Việc bổ nhiệm, điều động, cách chức
Chủ nhiệm, Phó chủ nhiệm Uỷ ban thanh tra tỉnh, thành phố phải căn cứ vào Điều
25 của Nghị định số 24-CP ngày 2-2-1978, Điều 49 của Nghị định 35-CP ngày 9-2-1981
và phù hợp với nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất của hệ thống thanh tra
được nghị quyết này quy định.
Nguyên tắc và thủ tục bổ nhiệm, điều
động, cách chức đối với Chủ nhiệm, Phó chủ nhiệm Uỷ ban thanh tra huyện, quận
sẽ do Uỷ ban thanh tra Nhà nước Trung ương quy định cụ thể.
Ngoài các thành phần kể trên, Uỷ
ban thanh tra Nhà nước các cấp cần có thêm thành viên là cán bộ lãnh đạo của một
số ngành quản lý tổng hợp, của các đoàn thể Công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam theo một thể thức do Hội đồng Bộ trưởng
quy định sau.
c. Ban thanh tra của các ngành ở
Trung ương và ở tỉnh, thành phố do thủ trưởng ngành lập ra căn cứ vào những nguyên
tắc của nghị quyết này và sự hướng dẫn của Uỷ ban thanh tra Nhà nước Trung
ương.
Ban thanh tra ngành do một đồng chí
lãnh đạo ngành, hoặc do một cán bộ có trình độ và năng lực tương đương làm trưởng
ban. Việc bổ nhiệm, điều động, cách chức các trưởng ban, phó trưởng ban thanh
tra ngành cần được bàn bạc và nhất trí giữa thủ trưởng ngành và Uỷ ban thanh
tra Nhà nước cùng cấp.
Ban thanh tra ngành chịu sự chỉ đạo
trực tiếp của thủ trưởng ngành. Uỷ ban thanh tra Nhà nước các cấp có trách nhiệm
hướng dẫn về nghiệp vụ thanh tra và tổ chức phối hợp các hoạt động của thanh
tra ngành nhằm phát huy tác dụng của toàn ngành thanh tra.
Ban thanh tra ngành có trách nhiệm
giúp cho thủ trưởng ngành lập và tổ chức thực hiện chương trình kế hoạch thanh
tra theo nhiệm vụ, chức năng của ngành mình.
Ban thanh tra ngành phối hợp hoạt
động và trao đổi kinh nghiệm về nghiệp vụ với các tổ chức thanh tra thuộc ngành
mình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra.
3. Nhiệm vụ và
phương hướng hoạt động của thanh tra.
Quán triệt hai nhiệm vụ chiến lược
và 4 mục tiêu kinh tế - xã hội mà nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V
đã đề ra, và các nghị quyết của Trung ương Đảng, của Hội đồng Bộ trưởng, các tổ
chức thanh tra phải nắm vững những nhiệm vụ chính sau đây:
a. Thanh tra việc thực hiện kế hoạch
kinh tế - xã hội, chú trọng những vấn đề quan trọng và cấp bách của kế hoạch
Nhà nước, phát hiện và kiến nghị những chủ trương, biện pháp nhằm khắc phục
những yếu kém, sai sót, những hiện tượng tiêu cực trong công tác chỉ đạo và
quản lý, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả.
b. Thông qua hoạt động thanh tra,
kiến nghị những chủ trương, biện pháp nhằm ngăn ngừa và chống mọi biểu hiện của
tệ quan liêu, thiếu trách nhiệm, vô kỷ luật, tệ tham ô, hối lộ, cửa quyền, ức
hiếp quần chúng, từ đó góp phần đề cao pháp chế xã hội chủ nghĩa, hợp lý hoá tổ
chức bộ máy quản lý ở các ngành, các cấp, đưa việc chấp hành bốn chế độ công
tác (chế độ trách nhiệm, chế độ kỷ luật, chế độ bảo vệ của công, chế độ phục vụ
nhân dân) vào nền nếp.
c. Thanh tra việc chấp hành Pháp
lệnh quy định về xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân, giúp Uỷ ban
nhân dân và thủ trưởng ngành cùng cấp xem xét và giải quyết các khiếu nại, tố
cáo trong phạm vi quyền hạn được giao, chú trọng thanh tra việc thủ trưởng các
ngành, các cấp thực hiện chủ trương tiếp dân và trực tiếp xét, giải quyết các
đơn khiếu nại, tố cáo.
d. Trong quá trình hoạt động cần
gắn việc thanh tra chấp hành đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
- chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế - với cuộc đấu tranh chống kiểu chiến tranh phá
hoại nhiều mặt của bọn bành trướng bá quyền Trung quốc câu kết với đế quốc Mỹ hòng
phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
4. Tăng cường quyền
hạn của các tổ chức thanh tra và nâng cao hiệu lực thanh tra.
Thanh tra là để góp phần thúc đẩy
việc chấp hành nghiêm chỉnh và có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, bảo vệ pháp luật, giữ gìn kỷ luật. Vì vậy những quyền hạn giao cho
cơ quan thanh tra có giá trị pháp lý, những kết luận, kiến nghị của cơ quan
thanh tra phải được các ngành, các cấp, các đơn vị và cán bộ được thanh tra tôn
trọng và thi hành đúng đắn.
Các tổ chức thanh tra có quyền hạn
và trách nhiệm như sau:
a. Quyết định tổ chức các cuộc thanh
tra, cử đoàn thanh tra hoặc thanh tra viên đi thanh tra những nơi cần thanh tra.
Yêu cầu các cấp, các ngành, các đơn vị có trách nhiệm ở nơi được thanh tra báo
cáo tình hình, cung cấp tài liệu, trình bày rõ những sự việc có liên quan đến nội
dung thanh tra. Khi cần thiết, được quyền yêu cầu cán bộ các ngành, các cấp có
liên quan tham gia các cuộc thanh tra.
b. Trong khi tiến hành thanh tra
được quyền:
- Lập biên bản tại chỗ và đình chỉ
thi hành những việc làm vi phạm pháp luật, đang gây hoặc sắp gây thiệt hại nghiêm
trọng về chính trị, kinh tế cho Nhà nước và nhân dân.
- Tạm thời đình chỉ chức vụ công
tác đối với cán bộ của đơn vị được thanh tra, nếu xét thấy cán bộ đó có thể dựa
vào cương vị công tác của họ để cản trở việc thanh tra. (Riêng đối với các cán bộ
lãnh đạo các ngành, đơn vị cùng cấp với cơ quan thanh tra và đối với Chủ tịch,
Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp, thì cơ quan thanh tra phải đề
nghị với cấp có thẩm quyền xét và quyết định).
- Tạm thời đình chỉ việc thi hành
các quyết định điều động, kỷ luật những cán bộ, nhân viên đang là cộng tác viên
tích cực của thanh tra; những đối tượng thanh tra; những nhân chứng cần thiết
cho công tác thanh tra...
c. Kết thúc cuộc thanh tra, có kết
luận việc làm đúng, việc làm sai, phân tích nguyên nhân, làm rõ trách nhiệm đối
với đơn vị và cá nhân nơi được thanh tra và nơi có liên quan, đề ra các biện
pháp phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm và yêu cầu những nơi được thanh tra
phải chấp hành, kiến nghị các hình thức khen thưởng hoặc xử lý kỷ luật.
Cơ quan thanh tra tổ chức, theo dõi,
giám sát việc thực hiện những kiến nghị của mình; kiểm tra lại khi cần thiết để
kịp thời có ý kiến với nơi được thanh tra hoặc báo cáo với cấp có thẩm quyền.
d. Ban Thanh tra nhân dân ở cơ sở,
ngoài nhiệm vụ chung đã quy định ở điểm a, mục II của nghị quyết này, còn được
giao trách nhiệm giám sát, đôn đốc việc thi hành những kết luận, kiến nghị của
cơ quan thanh tra đã đề ra sau khi thanh tra đơn vị mình; đồng thời có quyền
báo cáo với cơ quan thanh tra cấp trên để có biện pháp giải quyết kịp thời, nếu
phát hiện những thiếu sót của đơn vị trong khi thi hành những kết luận, kiến
nghị ấy.
5. Các đối tượng
được thanh tra ngành, cấp, đơn vị, cá nhân... cần nhận thức đúng mục đích của
việc thanh tra để có thái độ thực sự hợp tác và tạo điều kiện thuận lợi cho
công tác thanh tra.
Thủ trưởng nơi được thanh tra có
trách nhiệm thi hành những kết luận, kiến nghị của thanh tra, người lãnh đạo cấp
trên của nơi được thanh tra cần chỉ đạo và đôn đốc việc thực hiện những kết luận,
kiến nghị của thanh tra. Nếu thủ trưởng nơi được thanh tra không nhất trí với
các kết luận, kiến nghị của thanh tra, thì được quyền khiếu nại với cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền và cơ quan thanh tra cấp trên xem xét.
Nghiêm cấm và trừng trị mọi hành
động cản trở, truy trù đối với thanh tra viên, cộng tác viên thanh tra, thanh tra
nhân dân trong việc thừa hành nhiệm vụ của họ.
6. Kiện toàn đội
ngũ cán bộ thanh tra, ban hành các chính sách chế độ đối với cán bộ thanh tra.
a. Cán bộ thanh tra phải có phẩm
chất tốt về chính trị, nêu cao tinh thần chí công vô tư và ý thức trách nhiệm, trung
thực, khách quan, kiên cường, phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước, có trình độ hiểu biết về quản lý Nhà nước, quản lý kinh
tế, về chuyên môn nghiệp vụ thuộc lĩnh vực thanh tra, có năng lực làm công tác
thanh tra, biết làm công tác vận động quần chúng; có tác dụng giúp những đối
tượng được thanh tra phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm. Những cán bộ thanh
tra lạm dụng quyền hạn được giao, có những quy định sai trái do mưu cầu lợi ích
riêng tư phải xử lý nghiêm minh.
b. Đội ngũ cán bộ thanh tra phải
được xây dựng theo hướng thanh tra viên chuyên trách làm nòng cốt; cán bộ, công
nhân viên chức đang công tác hoặc đã về hưu tham gia dưới hình thức cộng tác viên
thanh tra hoạt động cùng với thanh tra nhân dân ở cơ sở. Hội đồng Bộ trưởng sẽ
ban hành quy chế về cộng tác viên thanh tra.
c. Uỷ ban thanh tra Nhà nước Trung
ương phải có quy hoạch, kế hoạch cụ thể về công tác đào tạo bồi dưỡng thanh tra
viên theo hướng chuyên môn hoá. Cần vận dụng nhiều hình thức đào tạo và bồi
dưỡng thanh tra viên, cải tiến và nâng cao chất lượng giảng dạy. Chú trọng việc
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của ta đồng thời chú ý vận dụng những kinh
nghiệm tốt về công tác thanh tra của các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
d. Căn cứ quyền hạn và trách nhiệm
của Bộ trưởng được quy định trong Nghị định số 35-CP ngày 9-2-1981; căn cứ tính
chất nhà nước và tính chất nhân dân của hệ thống tổ chức ngành thanh tra quy
định trong nghị quyết này, Uỷ ban thanh tra Nhà nước Trung ương sẽ quy định cụ
thể về bộ máy, về quản lý đội ngũ cán bộ và về biên chế của Uỷ ban thanh tra
Nhà nước các cấp phù hợp với đặc điểm của ngành thanh tra và với nguyên tắc
phân cấp quản lý cho các cấp địa phương.
e. Uỷ ban thanh tra Nhà nước Trung
ương phối hợp cùng các ngành khác có liên quan nghiên cứu và trình Hội đồng Bộ
trưởng xét duyệt ban hành chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh thần phù hợp với
tính chất và đặc điểm của công tác thanh tra.
III. TĂNG CƯỜNG
CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA
Hoạt động thanh tra phải được tăng
cường một cách mạnh mẽ và đem lại hiệu quả thiết thực nhằm góp phần tạo nên sự
chuyển biến rõ rệt trong việc thực hiện các nhiệm vụ mà Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ V đã đề ra, trước hết là về mặt kinh tế - xã hội, phục vụ ngày càng tốt
sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần
thứ tư (khoá V) đã xác định "tất cả các cấp các ngành cần tăng cường kiểm
tra, kiểm soát để phát hiện và xử lý kịp thời đối với tình trạng vô trách nhiệm
trong việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước"... "đồng thời phải chấn chỉnh tổ chức và hoạt động của các cơ
quan thanh tra... của Nhà nước và của từng ngành, ở các cấp" "phát
triển rộng rãi các hình thức tổ chức kiểm tra nhân dân trong tất cả các đơn vị
kinh tế, hành chính cơ sở và làm cho các tổ chức này hoạt động tích cực, thường
xuyên có hiệu quả thiết thực".
Thủ trưởng các ngành ở Trung ương,
Uỷ ban nhân dân các cấp cần nhận thức đúng về vị trí và yêu cầu của công tác
thanh tra, từ đó mà không ngừng tăng cường sự chỉ đạo về tổ chức và hoạt động
thanh tra theo các phương hướng sau đây:
1. Quán triệt nội dung của nghị quyết
này trong toàn ngành và toàn cấp của mình, nhằm tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ
về nhận thức tư tưởng đối với công tác thanh tra, động viên mọi người tham gia
và ủng hộ công tác thanh tra.
2. Thực sự chăm lo xây dựng tổ chức
thanh tra ở ngành và địa phương mình, bố trí đủ cán bộ có phẩm chất và năng lực
làm công tác thanh tra, chú trọng những cán bộ chủ chốt, làm cho đội ngũ cán bộ
này được tăng cường và ổn định cả về số lượng và chất lượng, tạo điều kiện cho
cơ quan thanh tra làm tròn nhiệm vụ được giao.
3. Thực sự chỉ đạo các hoạt động
thanh tra:
a. Thường kỳ phổ biến cho cơ quan
thanh tra nhiệm vụ chính trị, tư tưởng chỉ đạo của ngành hoặc của địa phương để
cơ quan thanh tra quán triệt vào trương trình hoạt động của mình, trực tiếp xét
duyệt chương trình kế hoạch thanh tra 6 tháng, một năm.
b. Định chế độ nghe cơ quan thanh
tra báo cáo về tình hình các mặt của ngành, địa phương nhất là về tình hình
quản lý kinh tế, về đời sống: và kết quả hoạt động thanh tra trên các lĩnh vực
đó.
c. Giải quyết kịp thời và dứt khoát
những vấn đề do thanh tra kiến nghị, nhằm phát huy ưu điểm, ngăn ngừa, sửa chữa
khuyết điểm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thanh tra.
4. Uỷ ban thanh tra các cấp cần nắm
vững các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước, yêu cầu của lãnh đạo và chỉ
đạo trong từng thời gian, để xây dựng chương trình và kế hoạch thanh tra một
cách chủ động, sát đúng. Khi cần thiết phải tập trung lực lượng thanh tra những
vấn đề trọng tâm, cấp thiết theo yêu cầu của các cơ quan lãnh đạo Đảng và chính
quyền. Trong quá trình thực hiện chức năng của mình, tổ chức thanh tra các cấp
cần phối hợp chặt chẽ với tổ chức kiểm tra của Đảng, của các đoàn thể quần
chúng, thu hút sự tham gia rộng rãi và thiết thực của nhân dân để làm tốt nhiệm
vụ được giao.
Trên cơ sở thực hiện nghị quyết này
của Hội đồng Bộ trưởng, Uỷ ban thanh tra Nhà nước Trung ương cùng Bộ Tư pháp
nghiên cứu soạn thảo luật hoặc pháp lệnh về công tác thanh tra.
Những điều khoản của các văn bản
quy định trước đây về tổ chức và hoạt động thanh tra trái với Nghị quyết này đều
bị bãi bỏ.