Nghị quyết 19/NQ-HĐND năm 2024 giải quyết kiến nghị của cử tri trước và sau kỳ họp thứ bảy Hội đồng nhân dân tỉnh Tuyên Quang khóa XIX, nhiệm kỳ 2021-2026

Số hiệu 19/NQ-HĐND
Ngày ban hành 02/07/2024
Ngày có hiệu lực 02/07/2024
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Tỉnh Tuyên Quang
Người ký Phạm Thị Minh Xuân
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH TUYÊN QUANG
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 19/NQ-HĐND

Tuyên Quang, ngày 02 tháng 7 năm 2024

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI TRƯỚC VÀ SAU KỲ HỌP THỨ BẢY HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH KHÓA XIX, NHIỆM KỲ 2021-2026

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG KHÓA XIX, KỲ HỌP THỨ 8

Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;

Căn cứ Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân ngày 20 tháng 11 năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 19/NQ-HĐND ngày 04 tháng 7 năm 2023 của Hội đồng nhân dân tỉnh về Chương trình giám sát năm 2024 của Hội đồng nhân dân tỉnh;

Trên cơ sở xem xét Báo cáo số 99/BC-HĐND ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh về kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri trước và sau kỳ họp thứ bảy Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XIX, nhiệm kỳ 2021-2026 và ý kiến thảo luận của các đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh tại kỳ họp,

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Đánh giá việc giải quyết kiến nghị của cử tri trước và sau kỳ họp thứ bảy Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XIX

Hội đồng nhân dân tỉnh cơ bản nhất trí nội dung Báo cáo số 99/BC-HĐND ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh về kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri trước và sau kỳ họp thứ bảy Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XIX, nhiệm kỳ 2021-2026 với những kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân và trách nhiệm chủ yếu sau:

1. Kết quả đạt được

1.1. Ủy ban nhân dân tỉnh đã nghiêm túc tiếp thu, chỉ đạo, phân công các cơ quan, đơn vị, địa phương tham mưu giải quyết kiến nghị của cử tri theo thẩm quyền. Quá trình giải quyết liên quan đến nhiều lĩnh vực đã có sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương. Các sở, ngành, Ủy ban nhân dân huyện, thành phố đã tích cực kiểm tra, giải quyết, trả lời kiến nghị của cử tri. Chất lượng báo cáo kết quả giải quyết, trả lời kiến nghị cử tri được nâng lên, nội dung cụ thể, đúng vấn đề cử tri kiến nghị.

1.2. Đến nay, có 85/85 (tỷ lệ 100%) kiến nghị của cử tri trước và sau kỳ họp thứ bảy Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XIX thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh đã được các cơ quan, đơn vị xem xét, giải quyết, trả lời, trong đó: 16/85 kiến nghị (tỷ lệ 18,8%) đã được giải quyết xong; 50/85 kiến nghị (tỷ lệ 58,8%) đang được xem xét giải quyết hoặc đã có lộ trình giải quyết; 19/85 kiến nghị (tỷ lệ 23,4%) được Ủy ban nhân dân tỉnh tiếp thu, trả lời nhưng do khó khăn về nguồn lực hoặc cần có cơ chế, chính sách của trung ương chưa thực hiện được. Cơ bản các kiến nghị có đủ cơ sở, điều kiện giải quyết đã được giải quyết, trả lời; các kiến nghị do nguyên nhân khách quan chưa thể giải quyết đều được tiếp thu, trả lời cụ thể.

1.3. Nhiều kiến nghị của cử tri đối với việc thực hiện cơ chế, chính sách trong thực tiễn đã được giải quyết kịp thời, qua đó tạo sự đồng thuận trong Nhân dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.

2. Hạn chế và nguyên nhân

2.1. Hạn chế

- Việc giải quyết một số kiến nghị của cử tri chậm; số kiến nghị được giải quyết xong chiếm tỷ thấp (16/85 kiến nghị, tỷ lệ 18,8%). Có nội dung kết quả giải quyết chưa đáp ứng nguyện vọng của cử tri.

- Một số kiến nghị của cử tri về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đền bù thiệt hại trong sản xuất nông nghiệp do ngập úng gây ra, đã được kiến nghị nhiều lần nhưng chưa được giải quyết, trả lời dứt điểm; tiến độ giải quyết còn chậm.

- Nhiều kiến nghị của cử tri đã được Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, chỉ đạo giải quyết trong báo cáo giám sát tại các kỳ họp trước nhưng đến nay chưa được giải quyết dứt điểm.

2.2. Nguyên nhân

- Một số sở, ngành, cơ quan, đơn vị, Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã chưa thực hiện hết trách nhiệm trong việc giải quyết kiến nghị của cử tri.

- Công tác phối hợp giữa cơ quan chức năng với chính quyền địa phương trong quá trình xem xét, giải quyết kiến nghị của cử tri có lúc, có nơi chưa chặt chẽ, chưa kịp thời dẫn đến một số kiến nghị cử tri qua thời gian dài nhưng chưa giải quyết hoặc chưa được giải quyết dứt điểm.

- Việc kiểm tra, đôn đốc giải quyết kiến nghị cử tri chưa được thường xuyên, chưa quyết liệt.

- Một số kiến nghị liên quan đến chế độ, chính sách, đầu tư, nâng cấp, sửa chữa hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện, nước sinh hoạt... đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn trong khi khả năng ngân sách của tỉnh còn hạn chế, chưa đáp ứng ngay nguyện vọng của cử tri. Có kiến nghị của cử tri là những vấn đề đã được triển khai thực hiện từ nhiều năm trước, nội dung phức tạp nên khó khăn trong quá trình xem xét giải quyết.

3. Về trách nhiệm

Hạn chế trong việc giải quyết, trả lời kiến nghị của cử tri nêu trên có trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp, các sở, ngành, cơ quan, đơn vị trong thực hiện chức năng, nhiệm được giao; nhất là sở, ngành, cơ quan, đơn vị được phân công, giao nhiệm vụ giải quyết kiến nghị của cử tri. Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân có trách nhiệm trong công tác giám sát, đôn đốc thực hiện và xử lý vướng mắc từ thực tế.

Điều 2. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu

Để giải quyết kịp thời, hiệu quả, dứt điểm kiến nghị của cử tri, Hội đồng nhân dân tỉnh đề nghị:

[...]