Nghị quyết 101/2007/NQ-HĐND về Chương trình huy động nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội giai đoạn 2006 - 2010 trên địa bàn tỉnh Phú Thọ

Số hiệu 101/2007/NQ-HĐND
Ngày ban hành 31/05/2007
Ngày có hiệu lực 09/06/2007
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Tỉnh Phú Thọ
Người ký Ngô Đức Vượng
Lĩnh vực Đầu tư,Thương mại,Văn hóa - Xã hội

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH PHÚ THỌ

-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 101/2007/ NQ-HĐND

Việt Trì, ngày 31 tháng 05 năm 2007

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ CHƯƠNG TRÌNH HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC ĐẦU TƯ KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ - XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 2006 - 2010.

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ KHÓA XVI, KỲ HỌP THỨ MƯỜI

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;

Căn cứ Nghị quyết số 30/2005/NQ-HĐND ngày 08 tháng 7 năm 2005 của HĐND tỉnh về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006 - 2010); Nghị quyết số 64/2003/NQ- HĐND ngày 13 tháng 12 năm 2003 của HĐND tỉnh về Chương trình đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trọng điểm đến năm 2010;

Sau khi xem xét Tờ trình số 753/TTr-UBND ngày 12 tháng 4 năm 2007 của Ủy ban nhân dân tỉnh về Chương trình huy động nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội giai đoạn 2006 - 2010; Báo cáo thẩm tra của Ban Kinh tế và Ngân sách, và thảo luận,

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Tán thành thông qua Chương trình huy động nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội giai đoạn 2006 - 2010 của Uỷ ban nhân dân tỉnh; Hội đồng nhân dân tỉnh nhấn mạnh một số nội dung sau:

1. Về đánh giá kết quả huy động các nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2005.

Bám sát các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ của Chính phủ và các Bộ, ngành; xây dựng và triển khai có hiệu quả các cơ chế, chính sách về huy động nguồn lực; cộng với sự cố gắng nỗ lực, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, nên đầu tư kết cấu hạ tầng những năm qua đạt được kết quả tích cực từ chủ trương đến khai thác, quản lý và sử dụng vốn.

Tổng vốn huy động cho đầu tư kết cấu hạ tầng 5 năm (2001 - 2005) đạt 8.166 tỷ đồng, chiếm 53% tổng vốn đầu tư phát triển, tăng bình quân 37,6%/năm; trong đó: Đầu tư từ ngân sách Nhà nước 6.475 tỷ đồng, tăng bình quân 34,6%/năm (đầu tư qua tỉnh 3.902 tỷ đồng, tăng 43,9%/năm; đầu tư qua các bộ, ngành 2.573 tỷ đồng, tăng 19,2%/năm); đầu tư của dân cư, tư nhân 1.575 tỷ đồng, tăng 52%/năm; đầu tư trực tiếp nước ngoài 116 tỷ đồng, tăng 29,2%/năm.

Việc triển khai đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đã có tác động tích cực, trực tiếp đến thu hút các nguồn vốn khác cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Năng lực của các ngành kinh tế (công nghiệp, nông lâm nghiệp, dịch vụ) được nâng lên; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước được tăng cường, đến nay đã hình thành cơ bản các kết cấu hạ tầng thiết yếu. Công tác bố trí vốn đã từng bước khắc phục tình trạng phân tán, dàn trải; coi trọng huy động các nguồn lực cho đầu tư kết cấu hạ tầng. Công tác quản lý nhà nước về đầu tư và xây dựng có nhiều chuyển biến, đã tăng cường phân cấp, tạo điều kiện cho các cấp ngân sách chủ động trong đầu tư và xây dựng.

Tuy nhiên, việc xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện các chương trình, dự án còn nhiều bất cập, một số dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước và dự án giao đất cho nhà đầu tư hiệu quả còn thấp. Công tác triển khai quy hoạch, kế hoạch và cơ chế chính sách còn nhiều hạn chế; chưa tích cực tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư để thực hiện quy hoạch, kế hoạch; nhất là quy hoạch liên quan đến đầu tư của các Bộ, ngành Trung ương trên địa bàn. Quản lý nhà nước về đầu tư và xây dựng còn hạn chế. Bố trí vốn cho các công trình, dự án vẫn còn dàn trải. Công tác tư vấn khảo sát lập dự án, thiết kế, thẩm định và thực hiện dự án chưa tốt; giải phóng mặt bằng, xây dựng các khu tái định cư chậm. Việc phân cấp quản lý đầu tư chưa gắn với nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ; một số Ban quản lý dự án còn buông lỏng kiểm tra, giám sát nên chất lượng công trình, dự án thấp; còn xảy ra thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng. Chưa có dự án lớn mang tính liên vùng, đa mục tiêu có tác động lan tỏa lớn. Đầu tư trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp quy mô còn nhỏ, công nghệ ở mức trung bình thấp, chưa có đóng góp lớn cho sự tăng trưởng kinh tế; xử lý vấn đề môi trường còn nhiều hạn chế; cơ sở hạ tầng thiết yếu đầu tư chưa đồng bộ.

Những tồn tại hạn chế nêu trên có nguyên nhân khách quan, do Phú Thọ vẫn là tỉnh miền núi nghèo, vốn đầu tư hàng năm chủ yếu dựa vào sự trợ giúp của ngân sách Trung ương; ngân sách tỉnh chưa có khả năng bố trí đầu tư trọng tâm, trọng điểm cho các chương trình, dự án. Các nguồn lực đầu tư đã hạn hẹp lại chịu sức ép lớn giữa nhu cầu đầu tư của các cấp, các ngành, tạo nên sự co kéo trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ về đầu tư và xây dựng. Song cũng còn nhiều nguyên nhân chủ quan, đó là:

- Trách nhiệm, trình độ cán bộ của một số chủ dự án, cơ quan quản lý nhà nước chưa cao, thiếu cán bộ có trình độ năng lực; chưa kiên quyết đấu tranh với những tiêu cực trong quản lý đầu tư và xây dựng, còn tư tưởng ỷ lại, ngại va chạm, nể nang xuôi chiều. Phân công, phối hợp giữa các cấp, các ngành để thực hiện các nội dung về quản lý đầu tư và xây dựng còn hạn chế, dẫn đến vừa buông lỏng, vừa chồng chéo, làm chưa tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.

- Công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát tổ chức thực hiện chưa thường xuyên, nhất là quản lý chất lượng công trình, quản lý sử dụng vốn và thực hiện chế độ thông tin báo cáo; xử lý các vi phạm chưa nghiêm.

- Chưa xây dựng được cơ chế thống nhất, tạo phối hợp chặt chẽ trong thu hút các nguồn lực ngoài ngân sách Nhà nước để đầu tư kết cấu hạ tầng, nhất là vốn nước ngoài, tỉnh ngoài.

2. Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ chương trình huy động nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội giai đoạn 2006 - 2010.

a) Phương hướng chung:

Huy động tối đa các nguồn lực để đầu tư kết cấu hạ tầng, ưu tiên đầu tư phát triển các hạ tầng trọng điểm; cải thiện mạnh mẽ môi trường thu hút đầu tư, nhất là nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ trong tổ chức thực hiện. Nâng cao chất lượng, hiệu quả của các công trình, dự án đi đôi với đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong đầu tư và xây dựng. Phấn đấu đến năm 2010, hoàn thiện cơ bản các kết cấu hạ tầng kinh tế, hạ tầng văn hóa - xã hội chủ yếu, tạo điều kiện thu hút các nguồn lực khác cho đầu tư phát triển, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

b) Mục tiêu:

- Về huy động nguồn lực: Phấn đấu giai đoạn 2006 - 2010 thu hút 19 - 20 nghìn tỷ đồng cho đầu tư kết cấu hạ tầng.

- Về đầu tư các hạ tầng trọng điểm:

+ Giao thông: Đầu tư các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ và giao thông nông thôn. Trọng tâm là nâng cấp các tuyến có vai trò kết nối liên thông giữa các vùng có sản xuất hàng hóa lớn với các tuyến đường hành lang kinh tế quốc gia; những tuyến quan trọng để phát triển các khu kinh tế, dịch vụ du lịch trọng điểm.

+ Hạ tầng nông lâm nghiệp: Tập trung đầu tư các trung tâm sản xuất giống cây trồng, vật nuôi; các dự án thủy lợi vùng đồi đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, du lịch và giảm nhẹ thiên tai.

+ Mạng lưới điện: Đầu tư nâng công suất các trạm nguồn, lưới truyền tải, đảm bảo trên 90% số hộ được dùng điện, cung ứng đủ nhu cầu điện năng phục vụ sản xuất kinh doanh.

+ Thông tin liên lạc: Đầu tư hạ tầng về công nghệ thông tin, đảm bảo trên 70% số xã có điểm truy nhập Internet công cộng; 100% các điểm bưu điện văn hóa xã, các bệnh viện tuyến tỉnh, huyện, các trường THCS, THPT và 50% trường tiểu học có kết nối Internet.

+ Thương mại, dịch vụ: Tập trung đầu tư hạ tầng du lịch, dịch vụ tạo các tuyến du lịch của tỉnh như: Khu du lịch Đền Hùng, Khu du lịch Văn Lang, Khu nước khoáng nóng Thanh Thủy, Vườn quốc gia Xuân Sơn, Ao Châu (Hạ Hoà)...; nâng cấp hệ thống khách sạn, nhà hàng, xây dựng chợ đầu mối ở các huyện và Trung tâm thương mại ở Việt Trì.

[...]