CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 03/2000/NQ-CP
|
Hà Nội, ngày 02
tháng 2 năm 2000
|
I. ĐÁNH GIÁ
TÌNH HÌNH
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng
và Nhà nước, kinh tế hộ nông dân đã phát huy tác dụng to lớn, tạo sức mạnh mới
trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Trên nền tảng kinh
tế tự chủ của hộ nông dân đã hình thành các trang trại được đầu tư vốn, lao động
với trình độ công nghệ và quản lý cao hơn, nhằm mở rộng quy mô sản xuất hàng
hoá và nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
Hiện nay, hình thức kinh tế
trang trại đang tăng nhanh về số lượng với nhiều thành phần kinh tế tham gia,
nhưng chủ yếu vẫn là trang trại hộ gia đình nông dân và một tỷ lệ đáng kể của
gia đình cán bộ, công nhân, viên chức, bộ đội, công an đã nghỉ hưu. Hầu hết các
trang trại có quy mô đất đai dưới mức hạn điền, với nguồn gốc đa dạng, sử dụng
lao động của gia đình là chủ yếu; một số có thuê lao động thời vụ và lao động
thường xuyên, tiền công lao động được thoả thuận giữa hai bên. Hầu hết vốn đầu
tư là vốn tự có và vốn vay của cộng đồng; vốn vay của tổ chức tín dụng chỉ chiếm
tỷ trọng thấp. Phần lớn trang trại phát huy được lợi thế của từng vùng, kinh
doanh tổng hợp, lấy ngắn nuôi dài.
Sự phát triển của kinh tế trang
trại đã góp phần khai thác thêm nguồn vốn trong dân, mở mang thêm diện tích đất
trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá, nhất là ở các vùng trung du, miền núi và
ven biển; tạo thêm việc làm cho lao động nông thôn, góp phần xoá đói giảm
nghèo; tăng thêm nông sản hàng hoá. Một số trang trại đã góp phần sản xuất và
cung ứng giống tốt, làm dịch vụ, kỹ thuật tiêu thụ sản phẩm cho nông dân trong
vùng.
Tuy nhiên, quá trình phát triển
kinh tế trang trại đang đặt ra nhiều vấn đề cần được giải quyết kịp thời.
1. Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có
chủ trương về phát triển kinh tế trang trại, song còn một số vấn đề về quan điểm
và chính sách phải tiếp tục làm rõ như: việc giao đất, thuê đất, chuyển nhượng,
tích tụ đất để làm kinh tế trang trại; việc thuê mướn, sử dụng lao động; việc
cán bộ, đảng viên làm kinh tế trang trại; việc đăng ký hoạt động và thuế thu nhập
của trang trại...Những vấn đề đó chậm được giải quyết đã phần nào hạn chế việc
khai thác tiềm lực phong phú ở nhiều vùng để phát triển kinh tế trang trại.
2. Hiện còn khoảng 30% trang trại
chưa được giao đất, thuê đất ổn định, lâu dài, nên chủ trang trại chưa thực sự
yên tâm đầu tư sản xuất.
3. Hầu hết các địa phương có trang
trại phát triển chưa làm tốt công tác quy hoạch sản xuất, thuỷ lợi, giao thông,
điện, nước sinh hoạt, thông tin liên lạc; thị trường còn kém phát triển.
4. Phần lớn chủ trang trại còn
thiếu hiểu biết về thị trường, khoa học kỹ thuật và quản lý, thiếu vốn sản xuất
để phát triển lâu dài, thường lúng túng và chịu thua thiệt khi giá nông sản xuống
thấp, tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn.
II. QUAN ĐIỂM
VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn hình
thành và phát triển các trang trại trong thời gian qua và căn cứ vào chủ trương
đối với kinh tế trang trại đã được nêu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 12 năm 1997) và Nghị quyết số 06 ngày 10
tháng 11 năm 1998 của Bộ Chính trị về phát triển nông nghiệp và nông thôn, cần
giải quyết một số vấn đề về quan điểm và chính sách nhằm tạo môi trường và điều
kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển mạnh mẽ kinh tế trang trại trong thời gian
tới.
1. Thống nhất
nhận thức về tính chất và vị trí của kinh tế trang trại:
- Kinh tế trang trại là hình thức
tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia
đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt,
chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu
thụ nông, lâm, thuỷ sản.
- Phát triển kinh tế trang trại
nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai, vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý
góp phần phát triển nông nghiệp bền vững; tạo việc làm, tăng thu nhập; khuyến
khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo; phân bổ lại lao động, dân cư, xây
dựng nông thôn mới .
- Quá trình chuyển dịch, tích tụ
ruộng đất hình thành các trang trại gắn liền với quá trình phân công lại lao động
ở nông thôn, từng bước chuyển dịch lao động nông nghiệp sang làm các ngành phi
nông nghiệp, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá trong nông nghiệp và nông
thôn.
2. Một số chính
sách lâu dài của Nhà nước đối với kinh tế trang trại
- Nhà nước khuyến khích phát triển
và bảo hộ kinh tế trang trại. Các hộ gia đình, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế
trang trại được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất ổn định, lâu dài theo pháp luật để sản xuất kinh doanh.
- Nhà nước đặc biệt khuyến khích
việc đầu tư khai thác và sử dụng có hiệu quả đất trống, đồi núi trọc ở trung
du, miền núi, biên giới, hải đảo, tận dụng khai thác các loại đất còn hoang
hoá, ao, hồ, đầm, bãi bồi ven sông, ven biển, mặt nước eo vịnh, đầm phá để sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng chuyên canh với tỷ suất hàng hoá cao. Đối
với vùng đất hẹp, người đông, khuyến khích phát triển kinh tế trang trại sử dụng
ít đất, nhiều lao động, thâm canh cao gắn với chế biến và thương mại, dịch vụ,
làm ra nông sản có giá trị kinh tế lớn. Ưu tiên giao đất, cho thuê đất đối với
những hộ nông dân có vốn, kinh nghiệm sản xuất, quản lý, có yêu cầu mở rộng quy
mô sản xuất nông nghiệp hàng hoá và những hộ không có đất sản xuất nông nghiệp
mà có nguyện vọng tạo dựng cơ nghiệp lâu dài trong nông nghiệp.
- Nhà nước thực hiện nhất quán
chính sách phát huy kinh tế tự chủ của hộ nông dân, phát triển kinh tế trang trại
đi đôi với chuyển đổi hợp tác xã cũ, mở rộng các hình thức kinh tế hợp tác,
liên kết sản xuất - kinh doanh giữa các hộ nông dân, các trang trại, các nông,
lâm trường quốc doanh, doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác để tạo động lực và sức mạnh tổng hợp cho nông nghiệp, nông thôn
phát triển.
- Nhà nước hỗ trợ về vốn, khoa học-công
nghệ, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận
lợi cho các trang trại phát triển bền vững.
- Tăng cường công tác quản lý
Nhà nước để các trang trại phát triển lành mạnh, có hiệu quả.
3. Về chính
sách cụ thể.
a) Chính sách đất đai
- Hộ gia đình có nhu cầu và khả
năng sử dụng đất để phát triển trang trại được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê
đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thẩm quyền giao đất, cho
thuê đất được áp dụng theo quy định tại Nghị định số 85/1999/NĐ-CP, ngày 28
tháng 8 năm 1999 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số quy định về việc giao
đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài và Nghị định số
163/1999/NĐ-CP, ngày 16 tháng 11 năm 1999 của Chính phủ về giao đất, cho thuê đất
lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục
đích lâm nghiệp.
Hộ gia đình trực tiếp sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản sống tại địa phương có nhu cầu và
khả năng sử dụng đất để mở rộng sản xuất thì ngoài phần đất đã được giao trong
hạn mức của địa phương còn được ủy ban nhân dân xã xét cho thuê đất để phát triển
trang trại.
Hộ gia đình phi nông nghiệp có
nguyện vọng và khả năng tạo dựng cơ nghiệp lâu dài từ sản xuất nông, lâm nghiệp
và nuôi trồng thuỷ sản được ủy ban nhân dân xã cho thuê đất để làm kinh tế
trang trại.
Hộ gia đình, cá nhân ở địa
phương khác nếu có nguyện vọng lập nghiệp lâu dài, có vốn đầu tư để phát triển
trang trại, được ủy ban nhân dân xã sở tại cho thuê đất.
Diện tích đất được giao, được
thuê phụ thuộc vào quỹ đất của địa phương và khả năng sản xuất kinh doanh của
chủ trang trại.
- Hộ gia đình, cá nhân được nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thuê hoặc thuê lại quyền sử dụng đất của các tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân khác để phát triển trang trại theo quy định của pháp
luật. Người nhận chuyển nhượng hoặc thuê quyền sử dụng đất hợp pháp có các quyền
và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về đất đai và được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
Hộ gia đình, cá nhân đã được
giao hoặc nhận chuyển nhượng, quyền sử dụng đất vượt quá hạn mức sử dụng đất
trước ngày 01 tháng 01 năm 1999 để phát triển trang trại, thì được tiếp tục sử
dụng và chuyển sang thuê phần diện tích đất vượt hạn mức, theo quy định của
pháp luật về đất đai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất
nhưng chưa được giao, chưa được thuê, hoặc đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận trước ngày ban hành Nghị quyết này, nếu
không có tranh chấp, sử dụng đất đúng mục đích, thì được xem xét để giao hoặc
cho thuê đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan địa chính khẩn
trương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, để các chủ trang trại yên tâm đầu
tư phát triển sản xuất.
b) Chính sách thuế
- Để khuyến khích và tạo điều kiện
hộ gia đình, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế trang trại, nhất là ở những vùng
đất trống đồi núi trọc, bãi bồi, đầm phá ven biển, thực hiện miễn thuế thu nhập
cho trang trại với thời gian tối đa theo Nghị định số 51/1999/NĐ-CP, ngày 8
tháng 7 năm 1999 của Chính phủ về việc Quy định chi tiết thi hành Luật khuyến
khích đầu tư trong nước (sửa đổi) số 03/1998/QH10.
Theo quy định của Luật thuế thu
nhập doanh nghiệp thì hộ gia đình và cá nhân nông dân sản xuất hàng hóa lớn có
thu nhập cao thuộc đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Giao Bộ Tài chính
nghiên cứu trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 30/1998/NĐ-CP ngày 13
tháng 5 năm 1998 của Chính phủ về Quy định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp theo hướng quy định đối tượng nộp thuế là những hộ làm kinh tế
trang trại đã sản xuất kinh doanh ổn định, có giá trị hàng hóa và lãi lớn, giảm
thấp nhất mức thuế suất, nhằm khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, được
nhân dân đồng tình và có khả năng thực hiện.
- Các trang trại được miễn giảm
tiền thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai khi thuê đất trống, đồi
núi trọc, đất hoang hoá để trồng rừng sản xuất, trồng cây lâu năm và khi thuê
diện tích ở các vùng nước tự nhiên chưa có đầu tư cải tạo vào mục đích sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp.
c) Chính sách đầu tư, tín dụng
- Căn cứ vào quy hoạch phát triển
sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp trên các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó
khăn và đặc biệt khó khăn, Nhà nước có chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng về giao thông, thuỷ lợi, điện, nước sinh hoạt, thông tin, cơ sở chế
biến để khuyến khích các hộ gia đình, cá nhân phát triển trang trại sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp.
- Trang trại phát triển sản xuất,
kinh doanh trong những lĩnh vực thuộc đối tượng quy định tại Điều
8 mục I Chương II của Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 6 năm 1999 của
Chính phủ được vay vốn từ Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển của Nhà nước và việc vay
vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước thực hiện theo các quy định của Nghị
định này.
- Trang trại phát triển sản xuất,
kinh doanh được vay vốn tín dụng thương mại của các ngân hàng thương mại quốc
doanh. Việc vay vốn được thực hiện theo quy định tại Quyết định số
67/1999/QĐ-TTg, ngày 30 tháng 3 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ về "Một số
chính sách tín dụng ngân hàng phát triển nông nghiệp và nông thôn", chủ
trang trại được dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm tiền vay theo quy
định tại Nghị định số 178/1999/NĐ-CP, ngày 29 tháng 12 năm 1999 của Chính phủ về
bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.
d) Chính sách lao động
- Nhà nước khuyến khích và tạo
điều kiện hỗ trợ để các chủ trang trại mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, tạo
được nhiều việc làm cho lao động nông thôn, ưu tiên sử dụng lao động của hộ
nông dân không đất, thiếu đất sản xuất nông nghiệp, hộ nghèo thiếu việc làm. Chủ
trang trại được thuê lao động không hạn chế về số lượng; trả công lao động trên
cơ sở thoả thuận với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động. Chủ
trang trại phải trang bị đồ dùng bảo hộ lao động theo từng loại nghề cho người
lao động và có trách nhiệm với người lao động khi gặp rủi ro, tai nạn, ốm đau
trong thời gian làm việc theo hợp đồng lao động.
- Đối với địa bàn có điều kiện
kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, chủ trang trại được ưu tiên vay vốn thuộc
chương trình giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo để tạo việc làm cho lao động
tại chỗ; thu hút lao động ở các vùng đông dân cư đến phát triển sản xuất.
- Nhà nước có kế hoạch hỗ trợ
đào tạo nghề nghiệp cho lao động làm trong trang trại bằng nhiều hình thức tập
huấn, bồi dưỡng ngắn hạn.
đ) Chính sách khoa học, công nghệ,
môi trường.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn cùng với các địa phương có quy hoạch, kế hoạch xây dựng các công
trình thuỷ lợi để tạo nguồn nước cho phát triển sản xuất. Chủ trang trại tự bỏ
vốn hoặc vay từ nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước để xây dựng hệ
thống dẫn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt trong trang trại. Các chủ trang trại
xây dựng các công trình thuỷ lợi, sử dụng nước mặt, nước ngầm trong phạm vi
trang trại theo quy hoạch không phải nộp thuế tài nguyên nước.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn cùng với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy hoạch đầu tư
phát triển các vườn ươm giống cây nông nghiệp, cây lâm nghiệp và các cơ sở sản
xuất con giống (chăn nuôi, thuỷ sản) hoặc hỗ trợ một số trang trại có điều kiện
sản xuất giống để bảo đảm đủ giống tốt, giống có chất lượng cao cung cấp cho các
trang trại và cho hộ nông dân trong vùng.
- Khuyến khích chủ trang trại
góp vốn vào Quỹ hỗ trợ phát triển khoa học, liên kết với cơ sở khoa học, đào tạo,
chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật áp dụng vào trang trại và làm dịch vụ kỹ
thuật cho nông dân trong vùng.
e) Chính sách thị trường.
- Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương tổ chức tốt việc cung cấp thông tin thị trường, khuyến cáo khoa học kỹ thuật,
giúp trang trại định hướng sản xuất kinh doanh phù hợp với nhu cầu của thị trường
trong và ngoài nước.
- Nhà nước hỗ trợ việc đầu tư
nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới các cơ sở công nghiệp chế biến ở các vùng tập
trung, chuyên canh; hướng dẫn việc ký kết hợp đồng cung ứng vật tư và tiêu thụ
nông sản. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển công nghiệp
chế biến nông sản và tiêu thụ nông sản hàng hoá của trang trại và nông dân trên
địa bàn.
- Nhà nước khuyến khích phát triển
chợ nông thôn, các trung tâm giao dịch mua bán nông sản và vật tư nông nghiệp.
Tạo điều kiện cho các chủ trang trại được tiếp cận và tham gia các chương
trình, dự án hợp tác, hội chợ triển lãm trong và ngoài nuớc.
Đẩy mạnh sự liên kết giữa các cơ
sở sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản thuộc các thành phần kinh tế, đặc biệt
là giữa các doanh nghiệp Nhà nước với hợp tác xã, chủ trang trại, hộ nông dân.
Nhà nước tạo điều kiện và khuyến
khích chủ trang trại xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình và sản phẩm mua gom
của trang trại khác, của các hộ nông dân và nhập khẩu vật tư nông nghiệp.
g) Chính sách bảo hộ tài sản đã
đầu tư của trang trại.
Tài sản và vốn đầu tư hợp pháp của
trang trại không bị quốc hữu hoá, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính.
Trong trường hợp vì lý do quốc phòng, an ninh, vì lợi ích quốc gia, Nhà nước cần
thu hồi đất được giao, được thuê của trang trại thì chủ trang trại được thanh
toán hoặc bồi thường theo giá thị trường tại thời điểm công bố quyết định thu hồi.
h) Nghĩa vụ của chủ trang trại.
Chủ trang trại có nghĩa vụ:
Trong quá trình sản xuất phải thực
hiện các quy trình kỹ thuật về bảo vệ đất và làm giàu đất và các quy định khác
của pháp luật về đất đai;
Nộp thuế và thực hiện các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của pháp luật;
Tuân thủ các quy định của pháp
luật về quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ
theo quy định của pháp luật về lao động;
Tuân thủ các quy định pháp luật
về bảo vệ môi trường, bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh.
III. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN.
1. Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm hướng dẫn các điạ phương xây dựng quy
hoạch các vùng phát triển kinh tế trang trại; quy hoạch phát triển hệ thống thuỷ
lợi, cơ sở công nghiệp chế biến; tổ chức hệ thống khuyến nông, khuyến lâm,
thông tin thị trường; hướng dẫn các doanh nghiệp công nghiệp chế biến ký kết hợp
đồng tiêu thụ nông sản, nguyên liệu cho các trang trại; tổ chức đào tạo nghiệp
vụ kỹ thuật, quản lý cho chủ trang trại; hàng năm, trình Chính phủ báo cáo tổng
hợp tình hình kinh tế trang trại và kiến nghị những chính sách cần bổ sung, sửa
đổi để phát triển kinh tế trang trại.
2. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan trực thuộc Chính phủ hướng dẫn việc thực hiện các chính sách thuộc phạm vi
chức năng, nhiệm vụ của mình nêu trong Nghị quyết này.
3. Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm:
- Quy hoạch vùng mở mang kinh tế
trang trại phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh; hàng
năm công bố quy hoạch sử dụng đất đã được cơ quan có thẩm quyền xét duyệt; công
bố quỹ đất chưa sử dụng, quỹ đất có nhu cầu cho thuê, niêm yết công khai tại trụ
sở ủy ban nhân dân các cấp để các hộ gia đình, cá nhân đăng ký thuê sử dụng lập
trang trại.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng phục
vụ cho vùng phát triển kinh tế trang trại phù hợp với sự phát triển của nông
nghiệp, nông thôn trong thời kỳ mới.
- Bảo đảm trật tự an ninh trên địa
bàn để nhân dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất.