Nghị định 65/2003/NĐ-CP về tổ chức, hoạt động tư vấn pháp luật

Số hiệu 65/2003/NĐ-CP
Ngày ban hành 11/06/2003
Ngày có hiệu lực 16/07/2003
Loại văn bản Nghị định
Cơ quan ban hành Chính phủ
Người ký Phan Văn Khải
Lĩnh vực Dịch vụ pháp lý

CHÍNH PHỦ
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 65/2003/NĐ-CP

Hà Nội, ngày 11 tháng 6 năm 2003

 

NGHỊ ĐỊNH

CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 65/2003/NĐ-CP NGÀY 11 THÁNG 6 NĂM 2003 VỀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN PHÁP LUẬT

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Nhằm góp phần đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng về tư vấn pháp luật của cá nhân, tổ chức, nâng cao ý thức pháp luật và giúp công dân ứng xử theo pháp luật trong quan hệ đời sống hàng ngày; tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động tư vấn pháp luật;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp,

NGHỊ ĐỊNH:

Chương 1:

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Đối tượng và phạm vi điều chỉnh

Nghị định này quy định về tổ chức, hoạt động tư vấn pháp luật mang tính chất xã hội, không nhằm mục đích thu lợi nhuận của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.

Hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư theo quy định của Pháp lệnh luật sư, của Trung tâm trợ giúp pháp lý của nhà nước không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định này.

Điều 2. Hình thức tổ chức và phạm vi hoạt động tư vấn pháp luật

Tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp có đủ điều kiện quy định tại Nghị định này thì được thành lập Trung tâm tư vấn pháp luật theo quy định của Nghị định này để thực hiện tư vấn pháp luật miễn phí cho thành viên của tổ chức mình.

Nhà nước khuyến khích Trung tâm tư vấn pháp luật thực hiện tư vấn pháp luật miễn phí cho người nghèo và các đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật.

Ngoài hoạt động tư vấn pháp luật miễn phí cho các đối tượng quy định tại Nghị định này, Trung tâm tư vấn pháp luật được thu phí từ các đối tượng khác để tự trang trải cho hoạt động của mình theo quy định của Nghị định này.

Điều 3. Quản lý hoạt động tư vấn pháp luật

Quản lý hoạt động tư vấn pháp luật theo quy định tại Nghị định này được thực hiện theo nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với phát huy vai trò tự quản của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp nhằm bảo đảm hoạt động tư vấn pháp luật theo quy định của Nghị định này.

Chương 2:

TRUNG TÂM TƯ VẤN PHÁP LUẬT

Điều 4. Điều kiện thành lập Trung tâm tư vấn pháp luật

1. Tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp muốn thành lập Trung tâm tư vấn pháp luật phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Có ít nhất 3 tư vấn viên pháp luật có đủ điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 13 Nghị định này;

b) Có địa điểm riêng của Trung tâm tư vấn pháp luật để giao dịch và làm việc.

2. Tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (sau đây gọi tắt là tổ chức chủ quản) cấp tỉnh, cấp Trung ương ra quyết định thành lập Trung tâm tư vấn pháp luật. Quyết định thành lập Trung tâm tư vấn pháp luật do người đứng đầu tổ chức chủ quản ký và có nội dung chính sau đây:

a) Tên gọi của Trung tâm tư vấn pháp luật;

b) Mục đích, nhiệm vụ của Trung tâm tư vấn pháp luật;

c) Lĩnh vực tư vấn pháp luật;

d) Chế độ tài chính của Trung tâm tư vấn pháp luật.

3. Tên gọi của Trung tâm tư vấn pháp luật phải thể hiện rõ tên gọi của tổ chức chủ quản. Trong trường hợp một tổ chức chủ quản thành lập từ 2 Trung tâm tư vấn pháp luật trở lên, thì tên gọi của các Trung tâm này phải có sự phân biệt với nhau.

[...]