CHÍNH
PHỦ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
55/1998/NĐ-CP
|
Hà
Nội, ngày 22 tháng 7 năm 1998
|
NGHỊ ĐỊNH
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 55/1998/NĐ-CP NGÀY 22 THÁNG 7 NĂM 1998 VỀ XỬ
LÝ HÀNG HÓA DO NGƯỜI VẬN CHUYỂN ĐƯỜNG BIỂN LƯU GIỮ TẠI VIỆT NAM
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Bộ Luật Hàng hải Việt Nam ngày 30 tháng 6 năm 1990;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1. Nghị
định này quy định trình tự, thủ tục xử lý đối với hàng hóa do Người vận chuyển
đường biển lưu giữ tại Việt Nam để bảo đảm việc thanh toán tiền cước vận chuyển,
tiền bồi thường do lưu tầu và các khoản chi phí khác liên quan đến việc vận
chuyển hàng hóa quy định tại Điều 96 của Bộ Luật Hàng hải Việt Nam (sau đây gọi
là ''hàng hóa lưu giữ'').
Điều 2.
1. Người vận
chuyển có quyền lưu giữ và xử lý hàng hóa lưu giữ trong các trường hợp sau đây:
a) Người thuê vận chuyển hoặc
Người nhận hàng chưa thanh toán hết hoặc không đưa ra một bảo đảm cần thiết về
thanh toán hết tiền cước vận chuyển, tiền bồi thường do lưu tầu và các chi phí
hợp lý khác liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa đó (sau đây gọi là ''các khoản
nợ''). Người vận chuyển chỉ được lưu giữ số lượng hàng hóa có giá trị bảo đảm
thanh toán đủ các khoản nợ và các chi phí quy định tại khoản 1, Điều 8 Nghị định
này, trừ trường hợp lô hàng cụ thể có tính đặc thù.
b) Không có Người nhận hàng.
c) Người nhận hàng từ chối nhận
hàng hoặc trì hoãn việc dỡ hàng.
d) Có nhiều người cùng xuất
trình vận đơn gốc, giấy gửi hàng hoặc chứng từ vận chuyển hàng hóa tương đương
có giá trị để nhận hàng.
2. Quyền xử lý hàng hóa lưu giữ
phát sinh sau sáu mươi (60) ngày, kể từ ngày Người vận chuyển gửi thông báo đầu
tiên về việc lưu giữ. Trong trường hợp hàng hóa lưu giữ thuộc loại mau hỏng ,
có khả năng gây ô nhiễm môi trường, có ảnh hưởng tới an ninh quốc phòng hoặc việc
ký gửi hàng hóa lưu giữ quá tốn kém so với giá trị thực tế của hàng hóa thì Người
vận chuyển có quyền xử lý hàng hóa lưu giữ sớm hơn thời hạn quy định, nhưng vẫn
phải thực hiện việc thông báo theo quy định tại Điều 3 Nghị định này.
3. Người vận chuyển thực hiện việc
lưu giữ hàng hóa và xử lý hàng hóa lưu giữ quy định tại Nghị định này (sau đây
gọi là ''Người lưu giữ'') phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trước pháp luật về
tính hợp pháp của việc lưu giữ và việc xử lý hàng hóa lưu giữ đó.
Điều 3.
1. Ngay
khi thực hiện việc lưu giữ hàng hóa, Người lưu giữ phải thông báo bằng văn bản
cho Người thuê vận chuyển hoặc Người nhận hàng về việc lưu giữ hàng hóa và dự định
bán hàng để trừ các khoản nợ.
2. Sau ba mươi (30) ngày, kể từ
ngày gửi thông báo đầu tiên, mà Người lưu giữ không nhận được trả lời của Người
thuê vận chuyển hoặc của Người nhận hàng, hoặc không được thanh toán hết các
khoản nợ, thì Người lưu giữ phải thông báo ba (3) lần liên tiếp trên báo hàng
ngày của Trung ương hoặc của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi
là ''cấp tỉnh'').
3. Sau sáu mươi (60) ngày, kể từ
ngày gửi thông báo đầu tiên, mà Người lưu giữ vẫn không được thanh toán hết các
khoản nợ, thì Người lưu giữ có quyền ký hợp đồng ủy quyền việc bán đấu giá hàng
hóa lưu giữ cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá thuộc Sở Tư pháp hoặc tổ chức
kinh doanh dịch vụ bán đấu giá chuyên nghiệp do Sở Tư pháp quản lý về nghiệp vụ
(sau đây gọi là ''Người bán đấu giá'').
Điều 4.
Việc bán đấu giá hàng hóa lưu giữ được thực hiện theo ''Quy chế bán đấu giá tài
sản'' ban hành kèm theo Nghị định số 86/CP ngày 19 tháng 12 năm 1996 của Chính
phủ và các quy định của Nghị định này.
Điều 5.
1. Trong
trường hợp hàng hóa lưu giữ thuộc loại cấm nhập khẩu hoặc cấm lưu thông trên
lãnh thổ Việt Nam, Người nhập khẩu hàng hóa và hàng hóa đó phải bị xử lý theo
pháp luật hiện hành. Việc bán đấu giá hàng hóa lưu giữ đó chỉ thực hiện sau khi
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép.
2. Trong trường hợp hàng hóa lưu
giữ thuộc loại nhập khẩu có điều kiện (hoặc phải có hạn ngạch) thì trước khi ký
hợp đồng ủy quyền bán đấu giá Người lưu giữ phải làm thủ tục xin giấy phép nhập
khẩu hàng hóa của Bộ Thương mại.
Điều 6.
Trước khi ký hợp đồng ủy quyền bán đấu giá hàng hóa lưu giữ, Người lưu giữ phải
thuê giám định về chất lượng của hàng hóa lưu giữ. Chi phí về giám định chất lượng
hàng hóa được tính vào chi phí liên quan đến bán đấu giá hàng hóa.
Điều 7.
Gía khởi điểm của hàng hóa lưu giữ do Người bán đấu giá xác định trên cơ sở
tham khảo ý kiến của Người lưu giữ. Biên bản xác định giá khởi điểm hàng hóa
lưu giữ phải được lưu trong hồ sơ bán đấu giá.
Điều 8.
1. Toàn bộ
số tiền thu được do bán đấu giá hàng hóa lưu giữ được gửi vào ''Tài khoản tiền
quản lý, giữ hộ'' của Người lưu giữ tại Ngân hàng Việt Nam.
Việc chi trả số tiền này được thực
hiện theo thứ tự ưu tiên sau đây:
a) Thuế, lệ phí, các chi phí
liên quan đến việc ký gửi và bán đấu giá;
b) Các khoản nợ đối với Người
lưu giữ;
c) Các khoản chi phí hợp lý phát
sinh do việc lưu giữ hàng hóa.
2. Việc chi trả số tiền nói tại
khoản 1 Điều này phải có đầy đủ chứng từ hợp lệ theo đúng chế độ tài chính kế
toán của Nhà nước.
3. Số tiền còn thừa sau khi chi
trả các khoản tiền nói tại khoản 1 Điều này được giữ lại tại ''Tài khoản tiền
quản lý, giữ hộ'' để trả lại cho người có quyền nhận.
4. Trong trường hợp số tiền thu
được do bán đấu giá hàng hóa lưu giữ không đủ để chi trả các khoản tiền quy định
tại khoản 1 Điều này thì Người lưu giữ có quyền tiếp tục yêu cầu những người
liên quan trả đủ.
Điều 9.
1. Trong
thời hạn ba (3) ngày, kể từ ngày chi trả xong số tiền bán đấu giá hàng hóa lưu
giữ theo quy định tại Điều 8 Nghị định này, Người lưu giữ phải thông báo cho
Người thuê vận chuyển hoặc Người nhận hàng biết về việc chi trả số tiền thu được
do bán đấu giá hàng hóa lưu giữ đó. Ngay sau ngày gửi thông báo này, Người lưu
giữ phải đưa tin ba (3) lần liên tiếp trên báo hàng ngày của Trung ương hoặc cấp
tỉnh. Trong trường hợp còn thừa tiền thì phải thông báo rõ số tiền còn thừa và
số tài khoản tạm gửi tại Ngân hàng.
2. Trong trường hợp người có quyền
nhận số tiền còn thừa yêu cầu nhận lại số tiền đó, thì Người lưu giữ phải trả
cho người yêu cầu.
3. Sau một trăm tám mươi (180)
ngày, kể từ ngày Người lưu giữ thông báo theo quy định tại khoản 1 Điều này, mà
không có ai yêu cầu nhận lại số tiền còn thừa hoặc có người yêu cầu, nhưng
không phải là người có quyền nhận, thì Người lưu giữ có nghĩa vụ nộp số tiền đó
vào ngân sách Nhà nước tại Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương nơi phát sinh việc lưu giữ hàng hóa.
Trong trường hợp Người yêu cầu
nhận tiền còn thừa không được Người lưu giữ chấp nhận thì có quyền yêu cầu Tòa
án có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Khi Tòa án có quyết định
công nhận số tiền còn thừa là quyền lợi hợp pháp của người yêu cầu nhận tiền
thì Người lưu giữ cần có văn bản đề nghị cơ quan tài chính và Kho bạc Nhà nước
thoái thu số tiền đã nộp để trả lại cho người yêu cầu nhận tiền hợp pháp.
Điều 10. Trong
trường hợp nhiều người có quyền nhận số tiền còn thừa quy định tại khoản 2, Điều
9 Nghị định này thì số tiền còn thừa được chia theo tỷ lệ tương ứng với quyền lợi
của họ.
Điều 11.
Việc khiếu nại, tố cáo, giải quyết khiếu nại, tố cáo và việc xử lý vi phạm các
quy định của Nghị định này được thực hiện theo quy định của pháp luật hiện
hành.
Điều 12.
Nghị định này cũng được áp dụng đối với việc xử lý hàng hóa do Người vận chuyển
đường biển là tổ chức, cá nhân nước ngoài lưu giữ tại Việt Nam, trừ trường hợp
pháp luật Việt Nam hoặc Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có
quy định khác.
Điều 13. Nghị
định này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày ký.
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải
và Bộ trưởng Bộ Tư pháp có trách nhiệm tổ chức thực hiện Nghị định này.
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.