Thứ 6, Ngày 15/11/2024

Nghị định 322-NĐ năm 1957 Quy định thể lệ tổ chức kỳ thi tốt nghiệp trường Phổ thông 10 năm do Bộ trưởng Bộ Giáo Dục ban hành.

Số hiệu 322-NĐ
Ngày ban hành 17/04/1957
Ngày có hiệu lực 02/05/1957
Loại văn bản Nghị định
Cơ quan ban hành Bộ Giáo dục
Người ký Nguyễn Văn Huyên
Lĩnh vực Giáo dục

BỘ GIÁO DỤC
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 322-NĐ

Hà Nội, ngày 17 tháng 04 năm 1957 

 

 

NGHỊ ĐỊNH

QUY ĐỊNH THỂ LỆ TỔ CHỨC KỲ THI TỐT NGHIỆP TRƯỜNG PHỔ THÔNG 10 NĂM 

BỘ TRƯỞNG BỘ GIÁO DỤC

Chiếu Sắc lệnh số 119-SL ngày 9-7-1946 tổ chức Bộ Giáo dục;
Chiếu Nghị định số 596-NĐ ngày 30-8-1956 ban hành quy chế Trường Phổ thông 10 năm, đặc biệt điều 22 của nghị định;
Chiếu Nghị định số 125-NĐ ngày 27-2-1956 tổ chức kỳ thi tốt nghiệp Trường Phổ thông 9 năm;
Theo đề nghị của ông Giám đốc Ngân hàng Nha Giáo dục Phổ thông;

NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1. – Nay bãi bỏ Nghị định số 125-NĐ ngày 27-2-1956 nói trên và quy định như sau thể lệ tổ chức kỳ thi tốt nghiệp trường Phổ thông 10 năm.

Chương 1:

THỂ LỆ TỔNG QUÁT

Điều 2. – Bắt đầu từ năm 1957, sẽ tổ chức kỳ thi tốt nghiệp phổ thông cho tất cả học sinh lớp 10 các trường phổ thông công và tư và các tự do thí sinh đã học hết chương trình lớp 10 phổ thông.

Điều 3. – Kỳ thi tốt nghiệp phổ thông do khu, Sở Giáo dục phụ trách tổ chức, Giấy chứng nhận tốt nghiệp do Nha Giáo dục Phổ thông cấp.

Điều 4. – Kỳ thi tốt nghiệp này chỉ có một khóa thi.

Về mỗi khóa thi, Bộ Giáo dục sẽ ấn định ngày thi thống nhất và nơi tổ chức các Hội đồng thi  theo đề nghị của các khu Giáo dục.

Điều 5. – Lúc nào thi, thí sinh phải mang theo thẻ học sinh hay giấy chứng nhận căn cước có dán ảnh, có ghi rõ ngày tháng năm sinh và nơi sinh có chữ ký của thí sinh. Giấy căn cước của học sinh các trường công và tư phải có chữ ký của Hiệu trưởng và dấu của trường. Giấy căn cước của học sinh trường tư và của thí sinh tự do phải có thị thực của Ủy ban Hành chính từ cấp huyện trở lên.

Chương 3:

ĐIỀU KIỆN GHI TÊN VÀ HỒ SƠ XIN THI

Điều 6. – Thí sinh phải đủ 17 tuổi tính đến ngày 31 tháng 12 năm thi và đã học hết chương trình cấp 3 Trường phổ thông 10 năm trong thời gian tối thiểu 3 niên khóa.

Trong năm học lớp 10 tại một trường công hay một trường tư, nếu học sinh vì ốm đau hay vì lý do gì nghỉ nhiều, không đủ điểm để tổng kết, thì Hội đồng nhà trường sẽ đưa ra xét để quyết định việc cho dự thi hay không.

Điều 7. – Muốn dự thi, thí sinh phải nộp những giấy tờ sau đây:

a) Đơn dự thi làm theo mẫu đính kèm nghị định này, do tay thí sinh viết và ký. Trên đơn của học sinh trường công và trường tư, có chữ nhận thực của Hiệu trưởng. Đơn xin thi của quân nhân, cán bộ, công nhân viên phải được Thủ trưởng đơn vị cơ quan đoàn thể nhận thực;

b) Bản sao giấy khai sinh (bản sao phải do cơ quan hành chính từ cấp huyện hay quận trở lên thị thực);

c) Bản chính học bạ hay giấy chứng nhận đã học hết chương trình cấp 3 phổ thông, trong đó ghi niên học của từng lớp, chủ yếu là lớp 10 phổ thông. Kể từ niên học 1956-1957, học bạ của học sinh các trường công và tư phải lập theo mẫu thống nhất của Nha giáo dục Phổ thông.

Từ niên học 1955-1956 trở về trước, các lớp 8 và 9 phổ thông có thể thay thế bằng các lớp tương đương bậc trung học cũ.

Điều 8. – Giấy chứng nhận đã học hết lớp 10 phổ thông hay một lớp nào thuộc cấp 3 phổ thông (hoặc lớp tương đương bậc trung học cũ) của những thí sinh tự do không học lớp đó ở một trường công hay trường tư nào phải được lập theo đúng thể thức và điều kiện dưới đây mới coi là hợp lệ:

Giấy chứng nhận cần ghi rõ:

a) Về thí sinh: họ tên, ngày tháng năm và nơi sinh, địa chỉ hay cơ quan đang công tác, tên lớp và thời gian học lớp đó;

b) Về người cấp giấy chứng nhận: họ tên, tuổi, chức vụ, địa chỉ hoặc trường hay cơ quan đang công tác.

Giấy chứng nhận phải do hai giáo sư cấp 3 (1 khoa học xã hội và 1 khoa học tự nhiên) hay hai người nào có trình độ văn hóa tương đương với hai giáo sư cấp 3 trên đây nhận thực. Giấy này phải được cơ quan giáo dục từ cấp tỉnh trở lên xác thực.

[...]