Nghị định 200-HĐBT năm 1988 về Điều lệ giải pháp hữu ích do Hội đồng Bộ trưởng ban hành

Số hiệu 200-HĐBT
Ngày ban hành 28/12/1988
Ngày có hiệu lực 28/12/1988
Loại văn bản Nghị định
Cơ quan ban hành Hội đồng Bộ trưởng
Người ký Võ Văn Kiệt
Lĩnh vực Sở hữu trí tuệ,Văn hóa - Xã hội

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 200-HĐBT

Hà Nội, ngày 28 tháng 12 năm 1988

 

NGHỊ ĐỊNH

CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 200-HĐBT NGÀY 28-12-1988 BAN HÀNH ĐIỀU LỆ VỀ GIẢI PHÁP HỮU ÍCH

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng ngày 4-7-1981;
Căn cứ Nghị định số 35-CP ngày 9-2-1981 quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Bộ trưởng và chức năng của Bộ trong một số lĩnh vực quản lý Nhà nước;
Để tăng cường công tác tổ chức và quản lý hoạt động sở hữu công nghiệp;
Theo đề nghị của Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước,

NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1. - Nay ban hành kèm theo Nghị định này bản Điều lệ về giải pháp hữu ích.

Điều 2. - Bản Điều lệ này có hiệu lực kể từ ngày ký. Những quy định trước đây trái với Điều lệ này đều bị bãi bỏ.

Điều 3. - Bộ trưởng các Bộ, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước, Thủ trưởng các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố đặc khu trực thuộc Trung ương, chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.

 

 

Võ Văn Kiệt

(Đã ký)

 

ĐIỀU LỆ

VỀ GIẢI PHÁP HỮU ÍCH
(Ban hành kèm theo Nghị định số 200-HĐBT ngày 28-12-1988 của Hội đồng Bộ trưởng)

Chương 1:

QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. - Phạm vi hiệu lực:

1. Điều lệ này áp dụng cho mọi cá nhân và pháp nhân Việt Nam nhằm khuyến khích việc tạo ra, áp dụng nhanh và rộng rãi các giải pháp hữu ích vào sản xuất, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội.

2. Các cá nhân và pháp nhân nước ngoài cũng được hưởng các quyền do Điều lệ này quy định trên nguyên tắc có đi có lại, theo đúng pháp luật của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các điều ước Quốc tế mà Việt Nam tham gia.

Điều 2. - Tiêu chuẩn bảo hộ giải pháp hữu ích:

1. Giải pháp hữu ích được bảo hộ theo Điều lệ này là giải pháp kỹ thuật mới đối với Việt Nam, có khả năng áp dụng vào sản xuất Việt Nam trong điều kiện kinh tế - kỹ thuật hiện tại và mang lại lợi ích kinh tế, xã hội với hiệu quả mới hoặc cao hơn hiệu quả thu được trên cơ sở tình trạng kỹ thuật tại thời điểm nộp đơn.

2. Một giải pháp được công nhận là mới nếu trước ngày ưu tiên của đơn xin bảo hộ giải pháp hữu ích (theo quy định ở điều 6) giải pháp đó chưa được sử dụng công khai hoặc công bố công khai ở Việt Nam dưới bất kỳ hình thức nào (các loại ấn phẩm, băng ghi âm, ghi hình, trưng bầy triển lãm...) đến mức căn cứ vào đó có thể thực hiện được và không trùng với một trong các giải pháp của đơn xin bảo hộ giải pháp hữu ích hoặc sáng chế có ngày ưu tiên sớm hơn nộp tại Cục Sáng chế - Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước.

Giải pháp không bị coi là mất tính mới nếu đã bị người khác công bố mà không được phép của chủ giải pháp trong vòng 6 tháng trước ngày nộp đơn xin bảo hộ.

3. Đối tượng của giải pháp hữu ích có thể là cơ cấu, chất hoặc phương pháp.

Điều 3. - Những giải pháp kỹ thuật không được bảo hộ.

Không công nhận là giải pháp hữu ích các giải pháp kỹ thuật sau đây:

a) Được tạo ra một cách dễ dàng đối với chuyên gia trong lĩnh vực kỹ thuật đó.

b, Trái với pháp luật và đạo đức xã hội chủ nghĩa.

Điều 4. - Các đối tượng không được bảo hộ.

[...]