Thứ 2, Ngày 28/10/2024

Nghị định 135-CP năm 1969 về việc huy động, tổ chức và sử dụng lao động nghĩa vụ do Hội đồng Chính phủ ban hành

Số hiệu 135-CP
Ngày ban hành 05/08/1969
Ngày có hiệu lực 05/08/1969
Loại văn bản Nghị định
Cơ quan ban hành Hội đồng Chính phủ
Người ký Lê Thanh Nghị
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương

HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 135-CP

Hà Nội, ngày 05 tháng 08 năm 1969 

 

NGHỊ ĐỊNH

VỀ VIỆC HUY ĐỘNG, TỔ CHỨC VÀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG NGHĨA VỤ

HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ nghị quyết số 103-CP ngày 6-7-1967 của Hội đồng Chính phủ về tăng cường quản lý lao động;
Để huy động, tổ chức và sử dụng hợp lý lao động nghĩa vụ do hợp tác xã và nhân dân đóng góp vào việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhằm phấn đấu không ngừng nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm và bồi dưỡng sức dân, ổn định lao động của hợp tác xã và của Nhà nước, thực hiện từng bước phân công mới lao động xã hội, góp phần củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa;
Theo đề nghị của ông Bộ trưởng Bộ Lao động;
Căn cứ nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong phiên họp thường vụ của Hội đồng Chính phủ ngày 18 tháng 12 năm 1968,

NGHỊ ĐỊNH:

I. NGUYÊN TẮC CHUNG

Điều 1. Việc huy động, tổ chức và sử dụng lao động nghĩa vụ phải quán triệt những nguyên tắc sau đây:

a) Đóng góp lao động để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chủ yếu là nghĩa vụ của hợp tác xã, xã và khu phố dựa trên cơ sở thi hành nghĩa vụ của mỗi công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

b) Huy động, tổ chức và sử dụng lao động nghĩa vụ phải có kế hoạch, phải được quản lý chặt chẽ và trang bị đủ công cụ, nhằm đạt năng suất cao.

c) Đãi ngộ những người đi làm lao động nghĩa vụ phải bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động, khuyến khích người đi làm nghĩa vụ, đồng thời phải giữ quan hệ mức thu nhập hợp lý đối với công nhân,viên chức Nhà nước và xã viên hợp tác xã.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ MỨC HUY ĐỘNG

Điều 2. Tất cả các hợp tác xã, xã và khu phố thuộc thành phố đều có nghĩa vụ cung cấp lao động nghĩa vụ theo chỉ tiêu phân bố của Nhà nước. Đi làm lao động nghĩa vụ là nhiệm vụ của mỗi công dân trong độ tuổi, nam từ 18 đến 50, nữ từ 18 đến 45.

Đối với công nhân, viên chức và những người khác đang làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước, bộ đội và công an nhân dân vũ trang (trừ những đơn vị thường trực chiến đấu), thì chỉ động viên đi làm tại địa phương, trong những trường hợp khẩn cấp do thiên tai, dịch họa gây ra, theo tinh thần nghị định số 232-CP ngày 24-11-1965 của Hội đồng Chính phủ.

Đối với học sinh, sinh viên trong độ tuổi lao động, chỉ động viên trong dịp hè, hoặc trong trường hợp khẩn cấp thì động viên từng đợt ngắn ngày tại địa phương, nhưng phải bảo đảm chương trình học tập, trừ trường hợp đặc biệt sẽ có quy định riêng.

Điều 3. Không động viên đi làm lao động nghĩa vụ những thương binh, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng, người gia đình neo đơn, người làm nghề tôn giáo chuyên nghiệp (mục sư, linh mục, sư, chức sắc), cán bộ chủ chốt của xã và hợp tác xã.

Điều 4. Hàng năm, Nhà nước giao chỉ tiêu cung cấp lao động nghĩa vụ cho từng địa phương trên cơ sở cân đối giữa yêu cầu sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu với khả năng lao động hiện có tại địa phương.

Căn cứ vào chỉ tiêu lao động nghĩa vụ Nhà nước phân bố và yêu cầu của các ngành trong địa phương, Ủy ban hành chính  tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập kế hoạch cân đối lao động, phân bố chỉ tiêu lao động nghĩa vụ cho huyện, khu phố, xã, hợp tác xã với mức trung bình khoảng 6%, nơi cao nhất khoảng 10% tổng số lao động (tính thành người trong năm).

III. NHỮNG CÔNG VIỆC ĐƯỢC PHÉP HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG NGHĨA VỤ

Điều 5. Được huy động và sử dụng lao động nghĩa vụ để làm những việc có thời hạn nhất định dưới đây:

a) Kiến thiết cơ bản: Xây dựng và tu sửa lớn các công trình đê, kè, cống, công trình đầu mối thuộc hệ thống trung, đại thủy nông, kênh cấp 1, cấp 2, cấp 3; các công trình thủy điện; đường giao thông huyện, tỉnh, liên tỉnh, đường quốc phòng, đường vận xuất gỗ, nền đường sắt; sân bay; bến sông, bến cảng; công trình nạo vét lòng sông; công trình quốc phòng và các công trình lớn khác.

b) Sản xuất: Sản xuất và thu hoạch lớn, khẩn trương các loại nông sản như cói, chè, cà phê, mía, thuốc lá mà lực lượng lao động sẵn có của các nông trường, xí nghiệp không bảo đảm kịp thời vụ.

c) Vận chuyển, xếp dỡ: vận chuyển, xếp dỡ một khối lượng lớn về vật tư, hàng hoá của Nhà nước để kịp thời phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu mà lực lượng vận chuyển, xếp dỡ chuyên nghiệp do ngành chủ quan quản lý không đủ sức bảo đảm được.

d) Phục vụ chiến đấu: Phục vụ chiến trường, vận chuyển thương binh, bệnh binh…

Điều 6. Ngoài những việc quy định ở điều 5, không được huy động và sử dụng lao động nghĩa vụ để làm các việc có thời hạn khác và những việc do nhân dân tự làm.

Đối với những việc làm có thời hạn khác thì ngành hoặc đơn vị quản lý cũng phải lập kế hoạch xin lao động và chỉ được huy động lao động sau khi kế hoạch này được Chính phủ phê chuẩn (nếu thuộc kế hoạch trung ương) hoặc Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố duyệt (nếu thuộc kế hoạch địa phương) và được cơ quan lao động phân bố chỉ tiêu lao động.

Những việc do nhân dân tự làm là những việc trực tiếp phục vụ sản xuất, đời sống văn hóa, xã hội của nhân dân trong phạm vi một hợp tác xã hoặc một xã, một khu phố, bao gồm:

- Ở hợp tác xã: Việc xây dựng công trình thủy lợi nhỏ, đê bối, trạm thủy điện nhỏ (dưới 200KW), trường mẫu giáo, nhà trẻ… do hợp tác xã bỏ vật tư, tiền vốn và tổ chức xã viên đi làm.

- Ở xã hoặc khu phố: Việc xây dựng và sửa chữa đường giao thông, bệnh xá, nhà hộ sinh, trường học, trụ sở, nhà văn hóa, chợ, bến đò, nghĩa trang của xã, khu phố do Ủy ban hành chính xã, khu phố tổ chức những người lao động trong xã, khu phố để làm. Số ngày công mà Ủy ban hành chính xã, khu phố được huy động tính bằng mỗi người lao động trong một năm, không quá 3 công ở đồng bằng và trung du, không quá 5 công ở miền núi.

[...]