Kế hoạch 6209/KH-UBND năm 2016 thực hiện Kết luận 119-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 47-NQ/TW trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

Số hiệu 6209/KH-UBND
Ngày ban hành 31/10/2016
Ngày có hiệu lực 31/10/2016
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Quảng Ngãi
Người ký Đặng Ngọc Dũng
Lĩnh vực Thể thao - Y tế,Văn hóa - Xã hội

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NGÃI
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 6209/KH-UBND

Quảng Ngãi, ngày 31 tháng 10 năm 2016

 

KẾ HOẠCH

TRIỂN KHAI THỰC HIỆN KẾT LUẬN 119-KL/TW NGÀY 04/01/2016 CỦA BAN BÍ THƯ VỀ TIẾP TỤC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 47-NQ/TW NGÀY 22/3/2005 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI.

Ngày 04/01/2016, Ban Bí thư ban hành Kết luận số 119-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết s47-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình (sau đây gọi tắt là Kết luận 119-KL/TW). Ngày 26/01/2016 Tỉnh ủy Quảng Ngãi có Công văn số 283-CV/TU về việc triển khai thực hiện Kết luận số 119-KL/TW ngày 04/01/2016 của Ban Bí thư.

Để tiếp tục triển khai thực hiện Nghị Quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2015 của Bộ Chính trị (khóa IX) về “tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình” (sau đây gọi tắt là Nghị Quyết số 47-NQ/TW) theo tinh thần chỉ đạo của Ban Bí thư tại Kết luận số 119-KL/TW, UBND tỉnh Quảng Ngãi ban hành Kế hoạch thực hiện như sau:

I. Đánh giá sơ lược 10 năm thực hiện Nghị Quyết số 47-NQ/TW trên địa bàn tỉnh

1. Kết quả thực hiện Nghị quyết 47-NQ/TW

Trong những năm qua, việc triển khai thực hiện Nghị quyết 47-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đạt được một số kết quả quan trọng. Nhận thức rõ tầm quan trọng và ý nghĩa lâu dài của Nghị quyết 47-NQ/TW, cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các ngành, mặt trận, đoàn thể và các tổ chức xã hội tích cực triển khai thực hiện; đưa công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình thành một trong những nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên trong chương trình hoạt động, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của các địa phương, cơ quan, đơn vị. Công tác tuyên truyền, vận động và giáo dục được quan tâm thường xuyên; công tác truyền thông dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình triển khai tích cực hơn. Đã có sự chuyển biến tích cực về hôn nhân và sinh đẻ của người dân; ngày càng có nhiều người kết hôn, sinh con phù hợp với lứa tuổi, sức khỏe và hoàn cảnh kinh tế; tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai ngày càng tăng; số người hưởng lợi từ dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản ngày càng nhiều, đặc biệt người dân ở các xã khó khăn; quy mô gia đình nhỏ 02 con được chấp nhận ngày càng rộng rãi, tốc độ gia tăng dân số được khống chế. Cụ thể:

- Tỷ suất sinh thô sau hơn 10 năm thực hiện, mức sinh trên địa bàn tỉnh từ 16,60‰ năm 2005 xuống còn 15,11‰ năm 2010 và 14,60‰ năm 2015, như vậy bình quân mỗi năm tỷ suất sinh thô giảm gần 0,2‰.

- Số con bình quân của một phụ nữ trong độ tui sinh đẻ trên địa bàn tỉnh từ 2,21 con năm 2005 xuống 2,07 năm 2010 và xuống còn 2,03 con năm 2015.

- Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên dao động qua các năm: từ 15,09% năm 2005 xuống còn 11,29% năm 2015.

- Tỷ số giới tính khi sinh từ 119 bé trai/100 bé gái năm 2005 xuống còn 117 bé trai/100 bé gái năm 2010 và còn 110,3 bé trai/100 bé gái năm 2015.

- Chỉ tiêu thực hiện các biện pháp tránh thai hiện đại đạt và vượt so với kế hoạch trên giao qua các năm: từ 105,61% năm 2005 lên 107,7% năm 2010 và đạt 100,8% năm 2015.

- Chất lượng dân số từng bước được nâng lên; công tác chăm sóc sức khỏe trong các chương trình phòng bệnh và chữa bệnh cho nhân dân đã đóng góp rất lớn trong việc nâng cao chất lượng dân số về sức khỏe thể chất, nâng cao tuổi thọ trung bình (Năm 2015 là 74 tuổi)

Những kết quả trên đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, trước hết là đóng góp vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, tiến trình xây dựng nông thôn mới; cải thiện chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

2. Tồn tại hạn chế, nguyên nhân

Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình vẫn còn một số tồn tại, hạn chế và những vấn đề thách thức đặt ra trong giai đoạn tới: việc chỉ đạo triển khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết 47-NQ/TW của Trung ương ở một số ngành, địa phương chưa thật sự đồng bộ, quyết liệt. Công tác kiểm tra, giám sát, xử lý những đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động sinh con thứ 3 trở lên có nơi chưa kịp thời nghiêm túc. Mức sinh giảm chậm, chưa bền vững, vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ tăng dân số trở lại; tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên tuy có giảm nhưng còn chậm và thiếu bền vững; tốc độ tăng dân số tự nhiên có giảm nhưng chưa bền vững; tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tuy có giảm nhưng vẫn còn ở mức cao so với quy luật sinh sản tự nhiên (từ 103 đến 107 trẻ em trai/100 trẻ em gái), vấn đề tảo hôn vẫn còn diễn ra ở các địa phương, đặc biệt là ở các xã miền núi vùng đồng dân tộc thiu số sinh sống. Việc thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ, tinh thần, nâng cao chỉ số phát triển con người (HDI) từng bước được quan tâm, tuy nhiên chưa được nghiên cứu đánh giá đầy đủ; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn ở mức cao; tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp.

Những tồn tại, hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, nhưng tập trung ở các nguyên nhân chủ yếu sau:

- Một số cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể cơ sở chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng, ý nghĩa chiến lược của công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình, còn tư tưởng chủ quan thỏa mãn trước những kết quả bước đầu đạt được dẫn đến buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý; sự phối kết hợp hoạt động giữa các ngành, đoàn thể tuy có nhiều cố gắng, nhưng còn thiếu đồng bộ, chặt chẽ. Một số cán bộ, đảng viên không gương mẫu, nhưng chưa được xử lý nghiêm và kịp thời.

- Công tác truyền thông giáo dục, cung cấp dịch vụ và xây dựng chế độ, chính sách chưa được đẩy mạnh, còn nhiều bất cập; việc triển khai thực hiện các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình tại Trạm Y tế tuyến xã còn hạn chế; kinh phí cho cấp xã không đủ để trang trải.

- Tổ chức bộ máy làm công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình trong thời gian qua còn nhiều bất cập; cán bộ bị xáo trộn, thiếu yên tâm; trình độ năng lực của một số cán bộ chuyên trách và cộng tác viên còn nhiều mặt hạn chế; cán bộ chuyên trách dân số xã chưa được tuyển dụng thành viên chức y tế.

- Một bộ phận người dân còn giữ quan niệm lạc hậu về việc sinh con, muốn có đông con, có con trai đnối dõi tông đường còn khá nặng nề.

II. Các căn cứ xây dựng kế hoạch:

- Kết luận số 119-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình;

- Quyết định số 2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản (DS và SKSS) Việt Nam giai đoạn 2011-2020;

- Nghị quyết số 03/2009/NQ-HĐND ngày 21/4/2009 của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ngãi về công tác DS-KHHGĐ tỉnh Quảng Ngãi trong tình hình mới;

- Quyết định số 282/QĐ-UBND ngày 10/7/2009 của UBND tỉnh Quảng Ngãi phê duyệt Đề án thực hiện công tác DS-KHHGĐ tỉnh Quảng Ngãi trong tình hình mới.

- Quyết định số 1388/QĐ-UBND ngày 04/9/2009 của UBND tỉnh về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện Đề án kiểm soát dân số vùng biển, đảo và ven biển năm 2009.

- Quyết định số 712/QĐ-UBND ngày 16/5/2012 của UBND tỉnh về việc phê duyệt Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược Dân số và sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-2015 của tỉnh Quảng Ngãi.

[...]