Kế hoạch 39/KH-UBND về phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm năm 2023 do tỉnh Bắc Kạn ban hành

Số hiệu 39/KH-UBND
Ngày ban hành 26/01/2023
Ngày có hiệu lực 26/01/2023
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Bắc Kạn
Người ký Phạm Duy Hưng
Lĩnh vực Thể thao - Y tế

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC KẠN
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 39/KH-UBND

Bắc Kạn, ngày 26 tháng 01 năm 2023

 

KẾ HOẠCH

PHÒNG, CHỐNG DỊCH BỆNH TRUYỀN NHIỄM NĂM 2023

Phần I

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH DỊCH BỆNH TRUYỀN NHIỄM NĂM 2022

1. Tình hình bệnh truyền nhiễm tại tỉnh Bắc Kạn

Năm 2022, trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn các dịch bệnh mắc rải rác tại các huyện, thành phố chủ yếu là dịch COVID-19. Từ đầu vụ dịch tính đến ngày 31/12/2022 trên địa bàn tỉnh đã ghi nhận 79.772 ca bệnh COVID-19, trong đó 79.709 trường hợp đã khỏi bệnh, 28 ca bệnh tử vong.

Các bệnh truyền nhiễm khác cơ bản được kiểm soát, giám sát, quản lý và xử lý kịp thời. Một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như cúm A/H5N1, cúm A/H7N9, cúm A/H5N6, MERS-CoV, bệnh do vi rút Zika,… không xảy ra. Cùng với cả nước, tỉnh tiếp tục duy trì thành quả thanh toán bại liệt, loại trừ uốn ván sơ sinh, các bệnh có vắc xin dự phòng thuộc chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia (lao, bạch hầu, ho gà, sởi, viêm não Nhật Bản, viêm gan B, Hib,…).

Trong năm 2022, toàn tỉnh ghi nhận 08 ca mắc nghi sởi; 40 ca mắc bệnh sốt xuất huyết (chủ yếu xâm nhập từ các tỉnh khác về địa phương); 01 trường hợp tử vong do bị bệnh dại; 69 ca mắc bệnh tay chân miệng (năm 2021 mắc 9 ca); 07 ca mắc quai bị (năm 2021 mắc 16 ca); 140 trường hợp mắc thủy đậu (năm 2021 mắc 277 ca); 5.551 ca bệnh cúm. Số người bị phơi nhiễm với bệnh dại được tiêm vắc xin là 1.832 người, trong đó số người nghèo được tiêm đạt 100% (489/489 người).

2. Kết quả thực hiện chỉ tiêu năm 2022

Các mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch năm 2022

Thực hiện năm 2022

So với năm 2021

Kết quả

Không để dịch lớn xảy ra và hạn chế thấp nhất số người mắc và tử vong do các bệnh truyền nhiễm gây dịch.

Đạt chỉ tiêu

Đạt chỉ tiêu

Đạt chỉ tiêu

100% UBND các cấp từ huyện/thành phố đến xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh có kế hoạch phòng chống dịch bệnh.

Đạt chỉ tiêu

Đạt chỉ tiêu

Đạt chỉ tiêu

100% bệnh, dịch bệnh mới nổi được phát hiện và xử lý kịp thời, hiệu quả.

Đạt chỉ tiêu

Đạt chỉ tiêu

Đạt chỉ tiêu

100% các ổ dịch được phát hiện sớm và xử lý kịp thời.

Đạt chỉ tiêu

Đạt chỉ tiêu

Đạt chỉ tiêu

100% các ổ dịch được chẩn đoán bằng xét nghiệm.

Đạt chỉ tiêu

Đạt chỉ tiêu

Đạt chỉ tiêu

100% các vụ dịch được khoanh vùng xử lý đúng hướng dẫn.

Đạt chỉ tiêu

Đạt chỉ tiêu

Đạt chỉ tiêu

100% các cơ sở khám chữa bệnh và cơ sở y tế dự phòng đóng trên địa bàn tỉnh thực hiện khai báo, báo cáo bệnh truyền nhiễm chính xác, kịp thời, đầy đủ bằng phần mềm trực tuyến theo quy định của Bộ Y tế.

Đạt chỉ tiêu

Đạt chỉ tiêu

Đạt chỉ tiêu

100% bệnh nhân nghèo bị phơi nhiễm với bệnh dại được tiêm vắc xin phòng bệnh dại miễn phí.

Đạt chỉ tiêu

Đạt chỉ tiêu

Đạt chỉ tiêu

3. Khó khăn, hạn chế

3.1. Trên thế giới và khu vực, dịch bệnh luôn diễn biến phức tạp và luôn có nguy cơ bùng phát dịch bệnh mới nổi, tái nổi, bệnh chưa rõ nguyên nhân, sự biến chủng tác nhân gây bệnh. Đặc biệt là dịch bệnh COVID-19 với các biến chủng mới, dịch bệnh cúm A(H7N9), MERS-CoV, sốt vàng ... chưa khống chế được triệt để; một số bệnh trước đây đã được khống chế nhưng hiện gia tăng trở lại ở nhiều quốc gia trong khu vực như bệnh tay chân miệng, sốt xuất huyết, bại liệt, sởi.

Bệnh COVID-19 trên thế giới vẫn có diễn biến phức tạp, số lượng người lao động trở về Việt Nam trong dịp cuối năm rất lớn và nhiều quốc gia có chung đường biên giới, hoạt động giao lưu thương mại với nước ta, do vậy nguy cơ nhiễm các chủng mới của COVID -19 trong nước và trên địa bàn tỉnh là rất lớn. Trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn đã có nhiều ca bệnh COVID-19 lây lan trong cộng đồng, song đã kịp thời khoanh vùng, dập dịch.

3.2. Các bệnh dịch chủ yếu do vi rút không có thuốc điều trị đặc hiệu, một số bệnh chưa có vắc xin dự phòng, các biện pháp phòng, chống dịch chủ yếu là các biện pháp không đặc hiệu, tuy đã được kiểm soát và có số mắc giảm nhưng vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ lây lan, bùng phát.

3.3. Sự biến đổi khí hậu, biến động về dân cư, đô thị hóa, đặc biệt là thói quen vệ sinh cá nhân, vệ sinh an toàn thực phẩm của một bộ phận lớn dân cư chưa được tốt đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều dịch bệnh mới phát sinh cũng như các dịch bệnh đã được khống chế nay xuất hiện trở lại.

3.4. Một số đơn vị, địa phương chưa chỉ đạo quyết liệt đối với công tác phòng chống dịch, vẫn còn tư tưởng coi công tác phòng chống dịch bệnh là nhiệm vụ của ngành y tế; một số ban, ngành, đoàn thể chưa tham gia tích cực vào công tác phòng chống dịch bệnh.

3.5. Nhận thức của một bộ phận người dân còn hạn chế, chưa tự giác tham gia các hoạt động phòng, chống dịch bệnh tại cộng đồng; trong năm ghi nhận 01 trường hợp tử vong do bệnh dại do người dân không chủ động, tự giác đi tiêm phòng vắc xin phòng dại.

3.6. Hoạt động tiêm chủng vắc xin trong chương trình tiêm chủng mở rộng thời gian qua do thiếu 1 số loại vắc xin nên tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ cho trẻ em dưới 1 tuổi chưa đạt theo kế hoạch.

3.7. Việc quản lý đối tượng tiêm chủng dịch vụ và tiêm chủng mở rộng khó khăn do không tách hoặc cập nhật được các đối tượng trong tiêm chủng mở rộng sử dụng vắc xin tiêm chủng dịch vụ, không quản lý được hết các đối tượng vãng lai, di biến động. Tại một số địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn chưa quản lý được hết các đối tượng, tỷ lệ tiêm chủng còn thấp ở quy mô cấp xã.

3.8. Kinh phí Chương trình mục tiêu Y tế - Dân số liên tục bị cắt giảm; kinh phí cho các hoạt động phòng, chống dịch còn hạn chế.

3.9. Đối với dịch COVID-19

- Công tác tiêm chủng vắc xin phòng COVID-19 mũi 3 cho đối tượng trên 18 tuổi và mũi 2 cho đối tượng 12-17 tuổi đạt tỷ lệ chưa cao (71,24% và 76,66%) do một số người dân chủ quan không đi tiêm phòng vắc xin.

- Công tác chỉ đạo, điều hành ở một số đơn vị có lúc còn lúng túng, bị động; công tác dự báo có lúc chưa sát với thực tiễn.

- Hệ thống y tế còn bộc lộ hạn chế, nhất là y tế cơ sở và y tế dự phòng chưa đáp ứng được yêu cầu khi dịch xảy ra.

- Hầu hết các trang thiết bị y tế, thuốc, sinh phẩm, vắc xin... đều phải nhập khẩu do chưa sản xuất được trong nước nên dẫn đến chưa kịp thời, bị động, chi phí cao. Chưa đảm bảo phương châm “4 tại chỗ” tại các đơn vị.

- Ứng dụng công nghệ thông tin còn bộc lộ hạn chế, việc phối hợp thực hiện “làm sạch” giữ liệu tiêm chủng VOVID-19 còn chậm tiến độ.

- Việc triển khai Nghị quyết số 38/NQ-CP ngày 17/3/2022 của Chính phủ về phòng chống dịch COVID-19 vẫn còn những hạn chế, bất cập do một số đơn vị, địa phương và một bộ phận nhân dân có nơi, có lúc còn tư tưởng chủ quan, lơ là, mất cảnh giác với diễn biến dịch bệnh. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo có lúc có nơi chưa làm tốt, chưa quyết liệt, thiếu kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện.

Phần II

[...]