Kế hoạch 323/KH-UBND tăng cường năng lực thuộc Chương trình Mở rộng quy mô vệ sinh và nước sạch nông thôn dựa trên kết quả, năm 2016 do tỉnh Bắc Kạn ban hành

Số hiệu 323/KH-UBND
Ngày ban hành 26/09/2016
Ngày có hiệu lực 26/09/2016
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Bắc Kạn
Người ký Đỗ Thị Minh Hoa
Lĩnh vực Xây dựng - Đô thị,Tài nguyên - Môi trường

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC KẠN
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 323/KH-UBND

Bắc Kạn, ngày 26 tháng 9 năm 2016

 

KẾ HOẠCH

TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC THUỘC CHƯƠNG TRÌNH MỞ RỘNG QUY MÔ VỆ SINH VÀ NƯỚC SẠCH NÔNG THÔN DỰA TRÊN KẾT QUẢ, NĂM 2016

Thực hiện văn bản số 6559/BNN-TCTL ngày 04 tháng 8 năm 2016 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc triển khai Chương trình mở rộng quy mô vệ sinh và nước sạch nông thôn dựa trên kết quả tại 21 tỉnh, UBND tỉnh Bắc Kạn xây dựng kế hoạch tăng cường năng lực thuộc Chương trình Mở rộng quy mô vệ sinh và nước sạch nông thôn dựa trên kết quả, năm 2016 với những nội dung sau:

I. ĐIỀU KIỆN (HIỆN TRẠNG) VÀ CÁC MỤC TIÊU VỆ SINH VÀ CẤP NƯỚC CỦA TỈNH

Bắc Kạn là tỉnh miền núi nằm ở trung tâm nội địa vùng Đông Bắc Bắc Bộ; phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng; phía Đông giáp tỉnh Lạng Sơn; phía Nam giáp tỉnh Thái Nguyên; phía Tây giáp tỉnh Tuyên Quang.

Bắc Kạn có 122 xã, phường, thị trấn thuộc 08 huyện thành phố, trong đó có 110 xã nông thôn, số thôn bản là 1.421, dân số toàn tỉnh là 313.084 người gồm 7 dân tộc Tày, Nùng, Kinh, Mông, Dao, Hoa, Sán Chay với 77.221 hộ, trong đó hộ nông thôn là 61.516 hộ. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều là 29,4%, mức thu nhập của người dân còn thấp.

1. Hiện trạng vệ sinh và cấp nước

1.1. Hiện trạng vệ sinh

Hiện nay 100% xã đã có đường ô tô đến trung tâm xã, 100% các trạm y tế xã hoạt động triển khai đầy đủ các chương trình y tế quốc gia tại xã. Đến hết năm 2015 đã có 86/122 xã phường đạt trạm chuẩn quốc gia về Y tế xã. Tỷ lệ trạm y tế có nhà tiêu và giếng nước chiếm 97,5% (119 trạm). Có 03 trạm công trình vệ sinh đã xuống cấp cần xây mới hoàn toàn. Một số trạm mặc dù có công trình nước và nhà tiêu HVS nhưng số lượng nhà tiêu không đủ theo quy định, chưa có nhà tiêu riêng cho cán bộ trạm vẫn dùng chung với bệnh nhân.

Riêng đối với công tác vệ sinh môi trường với những nỗ lực của Trung tâm YTDP tỉnh về chỉ đạo và phối hợp với y tế cơ sở đã triển khai tốt các hoạt động tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ cộng tác viên và tăng cường truyền thông tại cộng đồng mà tỷ lệ hộ gia đình nông thôn có nhà tiêu đạt 89,4% trong đó có số nhà tiêu hợp vệ sinh đạt 65,3%.

Thực trạng vệ sinh trường học: Toàn tỉnh hiện có 352 trường mầm non, phổ thông, trong đó: 124 trường mầm non, 112 trường tiểu học, 19 trường PTCS, 82 trường THCS, 15 trường THPT. Hiện tại có 113 trường học chưa có nguồn nước sạch, nhà tiêu, hố xí hợp vệ sinh, hệ thống cấp nước sạch bảo đảm để phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày khi học sinh đến trường.

1.2. Hiện trạng cấp nước

Tính đến cuối năm 2015, có 95,01% dân số nông thôn trên địa bàn tỉnh đã được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó có 22,25% được sử dụng nước đạt tiêu chuẩn quốc gia (nước đáp ứng các chỉ tiêu theo quy định của Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng nước sinh hoạt - QCVN 02:2009/BYT do Bộ Y tế ban hành ngày 17/6/2009); 99% các trường học (trường chính) có đủ nước hợp vệ sinh; 95,08% các trạm y tế xã có đủ nước hợp vệ sinh. Trên địa bàn toàn tỉnh có 615 công trình cấp nước tập trung, tuy nhiên chỉ có 88% công trình đưa vào sử dụng khai thác đảm bảo yêu cầu, còn 12 % số công trình hoạt động kém hiệu quả và không hoạt động.

2. Mục tiêu của tỉnh

2.1. Mục tiêu về vệ sinh:

Các mục tiêu truyền thông thay đổi hành vi vệ sinh đến hết năm 2016 như sau:

- 100% hộ dân trong 02 xã “Vệ sinh toàn xã” được tuyên truyền, vận động xây và sử dụng nhà tiêu cải thiện, thông qua cung cấp thông tin về các loại nhà tiêu cải thiện, cũng như cách sử dụng và bảo quản nhà tiêu đúng quy cách;

- 100% hộ dân trong 02 xã “Vệ sinh toàn xã” được cung cấp kiến thức về vệ sinh cá nhân và rửa tay với xà phòng và nước sạch vào các thời điểm quan trọng;

- 100% giáo viên và học sinh các trường mầm non và tiểu học (không kể các điểm trường) trong 02 xã “Vệ sinh toàn xã” được cung cấp kiến thức về sử dụng và bảo quản nhà tiêu hợp vệ sinh đúng quy cách, rửa tay với xà phòng và nước sạch.

- Các chủ cửa hàng, nhà sản xuất vật liệu xây dựng đồng ý trở thành CHTI và cộng tác viên, thợ xây của họ trong 02 xã “Vệ sinh toàn xã” được đào tạo tập huấn về thị trường vệ sinh, kỹ thuật xây dựng nhà tiêu, lập kế hoạch kinh doanh, kỹ năng bán hàng để xây dựng và phát triển thành hệ thống cửa hàng tiện ích.

- 95% cán bộ TYT xã, y tế thôn bản tham gia thực hiện Chương trình được đào tạo tập huấn về các mô hình thúc đẩy vệ sinh; truyền thông thay đổi hành vi vệ sinh; thúc đẩy thị trường vệ sinh, kiểm tra, giám sát vệ sinh nhà tiêu HGĐ; nhà tiêu trường học và trạm y tế.

- Các Sở, ban, ngành, đoàn thể, chính quyền các cấp tại địa phương được cung cấp thông tin về tầm quan trọng và các nội dung vệ sinh nông thôn và đưa chỉ tiêu tỷ lệ HGĐ sử dụng nhà tiêu cải thiện, số thôn bản đạt ODF, vào các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương các cấp và cam kết thực hiện.

2.2. Mục tiêu về cấp nước:

Mục tiêu của tỉnh Bắc Kạn đến năm 2020 nâng cao tỷ lệ dân số nông thôn được dùng nước sinh hoạt hợp vệ sinh lên 98%; tỷ lệ dân số nông thôn được dùng nước đạt tiêu chuẩn quốc gia là 32%; tỷ lệ cấp nước trạm Y tế xã 100%; tỷ lệ cấp nước Trường học 100%.

Mục tiêu cụ thể trong năm 2016 khởi công xây dựng mới và sửa chữa 2 công trình cấp nước và lập dự án đầu tư xây dựng và phê duyệt 10 công trình đưa vào kế hoạch thực hiện năm 2017. Số đấu nối đạt được trong năm 2016 là 1.007 đấu nối và trong năm 2017 là 2.654 đấu nối. Nâng tỉ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh lên 96%.

3. Khó khăn và chiến lược giải quyết

3.1. Về vệ sinh:

Bắc Kạn vẫn là tỉnh nghèo, mức thu nhập người dân thấp, điều kiện vệ sinh cá nhân cũng như vệ sinh cộng đồng chưa được cải thiện nhiều, tình trạng bệnh tật và dịch bệnh tiêu chảy cấp có liên quan đến nước sạch và vệ sinh môi trường vẫn xảy ra rải rác hàng năm. Nhận thức của người dân về công tác vệ sinh môi trường, vệ sinh cá nhân còn hạn chế, nhiều người chưa biết rửa tay sau khi đi vệ sinh, vẫn còn nhiều hộ gia đình sử dụng phân tươi trong trồng trọt, nhiều hộ dân miền núi cao vẫn còn phóng uế bừa bãi trên đồi, trên nương.

[...]