Chủ nhật, Ngày 27/10/2024

Kế hoạch 282/KH-UBND năm 2019 thực hiện tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững tỉnh Lào Cai đến năm 2020

Số hiệu 282/KH-UBND
Ngày ban hành 04/09/2019
Ngày có hiệu lực 04/09/2019
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Lào Cai
Người ký Trịnh Xuân Trường
Lĩnh vực Lĩnh vực khác

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH LÀO CAI

-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 282/KH-UBND

Lào Cai, ngày 04 tháng 9 năm 2019

 

KẾ HOẠCH

THỰC HIỆN TÁI CƠ CẤU NGÀNH CHĂN NUÔI THEO HƯỚNG NÂNG CAO GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TỈNH LÀO CAI ĐẾN NĂM 2020

Căn cứ Luật chăn nuôi ngày 19/11/2018;

Căn cứ Quyết định số 10/2008/QĐ-TTg ngày 16/01/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020;

Căn cứ Quyết định 984/QĐ-BNN-CN ngày 09/5/2014 của Bộ Nông nghiệp và PTNT phê duyệt Đ án tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững;

Căn cứ Quyết định số 1636/QĐ-TTg ngày 22/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;

Căn cứ Đề án số 01-ĐA/TU ngày 27/11/2015 của Tỉnh ủy Lào Cai về Tái cơ cấu nông, lâm nghiệp tỉnh Lào Cai giai đoạn 2016-2020;

Căn cứ Quyết định số 654/QĐ-UBND ngày 28/02/2018 của UBND tỉnh phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp tỉnh Lào Cai đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030;

Căn cứ kết quả triển khai Kế hoạch số 164/KH-UBND, ngày 06/10/2014 của UBND tỉnh Lào Cai “Thực hiện tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững tỉnh Lào Cai đến năm 2020”.

Năm 2018, tổng sản lượng thịt hơi đạt 63.189 tấn, đạt 124 % KH (50.833 tấn). Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi chiếm 43% tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, vượt 3,5% so với mục tiêu Đề án số 01 (37,4%). Sản lượng thịt hơi bình quân 87,5 kg/người/năm, đã cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng nội tỉnh, ngoài ra hàng năm cũng đã có một lượng khá lớn sản phẩm xuất bán ra ngoại tỉnh. Việc chuyển đổi phương thức chăn nuôi nhỏ lẻ sang trang chăn nuôi trang trại bước đầu phát triển khá tốt ở vùng thấp, toàn tỉnh hiện có 504 trang trại gia súc, gia cầm. Chăn nuôi hàng hóa đã giúp cho nhiều hộ nông dân nâng cao thu nhập, trở thành hộ khá, giàu. Bên cạnh kết quả đạt được, ngành chăn nuôi của tỉnh vẫn còn một số khó khăn, tồn tại: (i) Chăn nuôi quy mô nhỏ lẻ vẫn chiếm trên 90% tổng số hộ chăn nuôi, điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật chăn nuôi, trình độ nhận thức, ý thức chủ động phòng chống dịch bệnh, xử lý chất thải chăn nuôi còn nhiều hạn chế. Đây chính là nguyên nhân làm dịch bệnh ngày càng phát sinh nhiều trên đàn vật nuôi; (ii) Các mô hình liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi theo chuỗi chưa phát triển, chủ yếu sản xuất tự phát, không cân đối được nguồn cung - cầu của thị trường; (iii) Một ssản phẩm chăn nuôi (trâu, lợn) của cả nước, trong đó có tỉnh Lào Cai chủ yếu xuất qua đường tiểu ngạch, giá cả thường xuyên bấp bênh do chính sách biên mậu của nước bạn.

Căn cứ nhu cầu tiêu thụ thực phẩm trên địa bàn tỉnh Lào Cai hiện nay: trung bình 03kg thịt/người/tháng (tương đương với 4,5kg thịt hơi), 54kg/người/năm. Dân scủa tỉnh Lào Cai, năm 2019 có khoảng 722.736 người, nhu cu tiêu thụ thịt của người dân toàn tỉnh là 39.000 tấn thịt hơi/năm; nhu cầu tiêu thụ của khách du lịch và lao động ngoại tỉnh đang cư trú trên địa bàn tỉnh khoảng 6.000 tấn/năm. Ngoài ra, ước lượng thực phẩm cần cho các lễ hội, tiệc hiếu, hỷ... khoảng 8.000 tấn/năm. Như vậy, tổng nhu cầu thịt hơi của tỉnh trong năm 2019 là 53.000 tấn. Theo Kế hoạch năm 2019 sản lượng thịt hơi đạt 58.610 tấn, dư 5.610 tấn (xuất bán ra ngoại tỉnh, chế biến các sản phẩm hàng hóa: lạp sườn, thịt sấy, giò, chả...). Dự báo đến năm 2020, tổng nhu cầu tiêu thụ nội tỉnh khoảng 54.000 tấn.

Căn cứ tình hình, tính chất nguy hiểm của bệnh Dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP): hiện nay bệnh DTLCP chưa có vắc xin phòng bệnh, chưa có thuốc điều trị; vi rút có khả năng tồn tại lâu ngoài môi trường và có sức đề kháng rất cao, đường lây truyền rất đa dạng, khó kiểm soát, dịch đang lây lan mạnh... Theo thông tin của Cục Thú y: từ đầu tháng 2/2019 đến ngày 18/8/2019, bệnh DTLCP đang xảy ra tại 6.888 xã, 592 huyện của 62 tỉnh, thành phố, tổng số lợn bị bệnh buộc phải tiêu hủy là 4.385.996 con (chiếm 15,6% tổng đàn lợn cả nước), trọng lượng tiêu hủy 253.212 tấn. Tại tỉnh Lào Cai, từ ngày 17/5/2019 đến ngày 27/8/2019 bệnh DTLCP đã xảy ra tại 3.939 hộ chăn nuôi lợn nhỏ lẻ (chiếm 5,53 % số hộ chăn nuôi lợn toàn tỉnh) thuộc 108/164 xã, phường của 9/9 huyện, thành phố làm 22.188 con lợn ốm chết và cùng đàn phải tiêu hủy, trọng lượng 973.625kg (Số liệu thống kê 01/10/2018, tổng đàn lợn khoảng 525.278 con, tổng sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng năm 2018 là 50.450 tấn), số lợn tiêu hủy bằng 4,2% tổng đàn, trọng lượng tiêu hủy bằng 1,9% tổng sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng. Hiện nay bệnh DTLCP vẫn tiếp tục lây lan mạnh như dự báo tại tình huống 2 của Kế hoạch số 257/KH-UBND tỉnh ngày 30/7/2019 của UBND tỉnh Lào Cai “Bệnh DTLCP tiếp tục lây lan, dự báo đến hết năm 2019, ước khoảng 10% số hộ chăn nuôi trên địa bàn tỉnh bị dịch; số lợn phải tiêu hủy ước 10% tổng đàn”.

Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai ban hành Kế hoạch thực hiện tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững tỉnh Lào Cai đến năm 2020, cụ thể như sau:

I. MỤC TIÊU

1. Mục tiêu chung

- Phát triển chăn nuôi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững nhằm đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho tiêu dùng trong tỉnh, nhu cầu ẩm thực của khách du lịch, mở rộng thị trường ngoại tỉnh và hướng tới xuất khẩu chính ngạch.

- Chuyn đi phương thức chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi trang trại an toàn sinh học (đặc biệt với bệnh DTLCP), an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ môi trường nhằm nâng cao sức cạnh tranh, giá trị và hiệu quả chăn nuôi.

- Hình thành các vành đai cung cấp thực phẩm cho các đô thị, khu công nghiệp, khu du lịch trên cơ sở các chuỗi liên kết khép kín sản phẩm chăn nuôi từ trang trại đến bàn ăn.

- Phát huy lợi thế cạnh tranh của từng địa phương, vùng để chăn nuôi những vật nuôi đặc sản, các giống bản địa có giá trị kinh tế cao, chăn nuôi hữu cơ dựa trên các nguyên liệu thức ăn chăn nuôi sẵn có tại địa phương để nâng cao giá trị.

2. Mục tiêu cụ thể

- Năm 2019: Sản lượng thịt hơi các loại đạt 58.000 tấn. Trong đó: thịt lợn 45.500 tấn, thịt gia cầm 9.820 tấn, thịt trâu 2.120 tấn, thịt bò 560 tấn, thịt ngựa 158 tấn, thịt dê 225 tấn, các loại thịt khác 227 tấn; trứng: 46,4 triệu quả. Bình quân sản phẩm chăn nuôi đạt 81 kg thịt hơi và 64 quả trứng/người/năm.

- Năm 2020: Sản lượng thịt hơi các loại đạt 59.620 tấn. Trong đó: thịt lợn 45.800 tấn, thịt gia cầm 10.500 tấn, thịt trâu 2.130 tấn, thịt bò 570 tấn, thịt ngựa 158 tấn, thịt dê 230 tấn, các loại thịt khác 232 tấn; trứng 50,4 triệu quả.

- Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi ra ngoại tỉnh, xuất bán hàng năm khoảng 4-5 ngàn tấn thịt hơi các loại.

- Tăng cường khả năng kiểm soát, khống chế dịch bệnh, nhất là các bệnh nguy hiểm (Dịch tả lợn Châu Phi, Lở mồm long móng, Cúm gia cầm, Dại chó, bệnh Tai xanh ở lợn).

II. NỘI DUNG CƠ CẤU

1. Tái cấu chăn nuôi theo vùng và phương thức chăn nuôi

1.1. Vùng thấp (gồm các huyện: Bảo Thắng, Bảo Yên, thành phố Lào Cai và một số xã vùng thấp của huyện Văn Bàn, Bát Xát, Mường Khương, Bắc Hà)

- Ưu tiên, khuyến khích các hộ chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi lợn và gia cầm chuyển đổi mạnh đầu tư sang chăn nuôi trang trại đủ điều kiện theo Điều 55 Luật Chăn nuôi (có hiệu lực từ 01/01/2020); áp dụng quy chuẩn an toàn sinh học theo QCVN 01-14:2010/BNNPTNT, QCVN 01 -15:2010/BNNPTNT (Trang trại biệt lập, cách xa khu dân cư, nhà ở, đường giao thông... ti thiu 100 m); thực hiện chứng nhận cơ sở chăn nuôi an toàn dịch bệnh theo Thông tư s 14/2016/TT-BNNPTNT ngày 02/6/2016 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chứng nhận thực hành chăn nuôi tốt (VietGAHP), hoặc các tiêu chuẩn an toàn khác để liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi an toàn theo chuỗi từ trang trại đến bàn ăn; hướng tới xuất khẩu chính ngạch.

[...]