Kế hoạch 2480/KH-UBND thực hiện Nghị quyết 19-2018/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2018 và những năm tiếp theo trên địa bàn tỉnh Bình Dương

Số hiệu 2480/KH-UBND
Ngày ban hành 06/06/2018
Ngày có hiệu lực 06/06/2018
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Bình Dương
Người ký Trần Thanh Liêm
Lĩnh vực Doanh nghiệp,Thương mại

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 2480/KH-UBND

Bình Dương, ngày 06 tháng 6 năm 2018

 

KẾ HOẠCH

TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 19-2018/NQ-CP NGÀY 15/5/2018 CỦA CHÍNH PHỦ VỀ TIẾP TỤC THỰC HIỆN NHỮNG NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG KINH DOANH, NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH QUỐC GIA NĂM 2018 VÀ NHỮNG NĂM TIẾP THEO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG

Căn cứ Nghị quyết số 19-2018/NQ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2018 và những năm tiếp theo. Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng Kế hoạch thực hiện như sau:

I. Đánh giá tình hình:

Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã ban hành Kế hoạch số 598/KH-UBND ngày 28/2/2017 về việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP ngày 06/2/2017 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Đồng thời chỉ đạo các sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ đã đề ra nhằm góp phần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải cách các quy định về điều kiện kinh doanh, về quản lý chuyên ngành đối với hàng hóa, dịch vụ xuất, nhập khẩu, phù hợp với thông lệ quốc tế. Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước, nhất là trong giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công trực tuyến, triển khai đồng bộ, hiệu quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông.

Trong năm 2017, đã đạt một số kết quả tiêu biểu như sau: Triển khai thực hiện thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp trong 02 ngày làm việc theo cam kết giữa UBND tỉnh và Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (Luật Doanh nghiệp quy định là 03 ngày làm việc); Đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử cho 4.952 lượt doanh nghiệp; Thực hiện việc đơn giản hóa thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; Thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội theo quy định, kết quả đến nay đã có 9.046/9.146 đơn vị, doanh nghiệp toàn tỉnh thực hiện giao dịch điện tử và qua mạng internet, đạt 98,9%; Thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin đạt tỷ lệ 100% trong nộp tờ khai, nộp thuế; ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác hoàn thuế đối với doanh nghiệp đạt tỷ lệ 87%; Duy trì và tiếp tục thực hiện thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu trên hệ thống thông quan điện tử tự động (VNACCS/VCIS), Cơ chế một cửa quốc gia; Đơn giản hóa thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giảm thời gian và thủ tục đăng ký thế chấp và xóa thế chấp bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; Triển khai rà soát quy trình tiếp cận điện năng cho khách hàng từ lưới điện trung áp, theo đó rút ngắn thời gian giải quyết tối đa là 09 ngày làm việc.

Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện giải pháp về nộp thuế điện tử; công tác thanh tra, kiểm tra an toàn thực phẩm còn hạn chế; tính liên thông trong xử lý các công việc cho người dân và doanh nghiệp còn thấp; chưa thể lồng ghép các thủ tục thẩm duyệt về phòng cháy chữa cháy, thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường với thủ tục thẩm định thiết kế xây dựng. Nguyên nhân là do chủ quan đơn vị nộp thuế (tại thời điểm đến hạn nộp nhưng tài khoản đăng ký nộp thuế điện tử không có tiền, đơn vị phải thực hiện nộp bằng ủy nhiệm chi hoặc đơn vị phải vay tạm thời qua ngân hàng để nộp thuế); chưa có sự liên kết phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương trong việc kiểm soát nguồn nguyên liệu thực phẩm từ các tỉnh vào Bình Dương; việc thực hiện liên thông điện tử 3 cấp tỉnh, huyện, xã còn khó khăn, đặc biệt là liên thông giữa cơ quan hành chính ở địa phương với cơ quan ngành dọc của Trung ương, hoặc chia sẻ dữ liệu thông qua các phần mềm chuyên ngành còn gặp nhiều khó khăn; hệ thống các văn bản pháp quy và các văn bản hướng dẫn được ban hành còn chồng chéo, khi triển khai gặp nhiều vướng mắc.

II. Mục tiêu và các chỉ tiêu chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia:

1. Tiếp tục bám sát các tiêu chí đánh giá về môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới, về năng lực cạnh tranh của Diễn đàn Kinh tế thế giới, về năng lực đổi mới sáng tạo của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ thế giới, về Chính phủ điện tử của Liên hợp quốc. Kiên định các Mục tiêu đã đề ra trong Nghị quyết 19-2016/NQ-CP và Nghị quyết 19-2017/NQ-CP về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; đến năm 2020, chất lượng môi trường kinh doanh Việt Nam ngang hàng với trung bình các nước ASEAN 41.

2. Tập trung cải thiện các chỉ số môi trường kinh doanh để năm 2018 tăng thêm từ 8 - 18 bậc trên bảng xếp hạng của Ngân hàng Thế giới; trong đó cải thiện mạnh mẽ các chỉ số hiện đang bị xếp hạng thấp. Cụ thể là:

a) Khởi sự kinh doanh tăng thêm ít nhất 40 bậc.

b) Giải quyết tranh chấp hợp đồng tăng thêm 10 bậc; giải quyết phá sản doanh nghiệp tăng thêm 10 bậc.

3. Hoàn thành việc bãi bỏ, đơn giản hóa 50% điều kiện đầu tư, kinh doanh; kiến nghị bãi bỏ một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện theo Danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư.

4. Giảm ít nhất 50% danh mục hàng hóa, sản phẩm phải kiểm tra chuyên ngành; đồng thời, chuyển đổi mạnh mẽ cách thức quản lý nhà nước từ chủ yếu tiền kiểm sang chủ yếu hậu kiểm; xóa bỏ căn bản tình trạng một mặt hàng chịu quản lý, kiểm tra chuyên ngành của nhiều hơn một cơ quan; giảm tỷ lệ các lô hàng nhập khẩu phải kiểm tra chuyên ngành tại giai đoạn thông quan từ 25 - 27% hiện nay xuống còn dưới 10%.

5. Đẩy nhanh tiến độ ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết thủ tục hành chính, thực hiện dịch vụ công trực tuyến. Đến hết 2018, hầu hết các dịch vụ công phổ biến, liên quan đến người dân, doanh nghiệp được cung cấp ở mức độ 3 và 4.

6. Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành du lịch để du lịch từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; nâng cao năng lực cạnh tranh ngành dịch vụ logistics để tạo thuận lợi và giảm chi phí kinh doanh, hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế. Cụ thể là:

a) Cải thiện năng lực cạnh tranh ngành du lịch thêm khoảng 10 bậc (hiện xếp thứ 67/136 quốc gia)2.

b) Từng bước giảm chi phí logistics trong nền kinh tế xuống mức bằng khoảng 18% GDP (hiện hơn 20% GDP); cải thiện Chỉ số Hiệu quả logistics thêm khoảng 10 bậc (hiện xếp thứ 64/160 quốc gia)3.

III. Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu:

1. Nhiệm vụ và giải pháp chung:

* Các Sở, Ban, ngành: xây dựng kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết 19-2018/NQ-CP của đơn vị, hoàn thành trước ngày 30/6/2018. Trong đó, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, tiến độ thực hiện, đơn vị chủ trì thực hiện, tập trung thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

- Cải cách thủ tục hành chính, cải thiện các chỉ số khởi sự kinh doanh, cấp phép xây dựng và các thủ tục liên quan, tiếp cận điện năng, đăng ký sở hữu và sử dụng tài sản, nộp thuế và bảo hiểm xã hội theo thông lệ quốc tế.

- Ứng dụng công nghệ thông tin trong cung cấp dịch vụ công; đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với các dịch vụ công (như thuế, điện, nước, học phí, viện phí và chi trả các Chương trình an sinh xã hội).

- Nâng cao chất lượng hạ tầng du lịch, y tế, chăm sóc sức khỏe, an ninh và an toàn, vệ sinh môi trường các khu, địa điểm du lịch.

- Thực hiện các giải pháp thiết thực giảm chi phí logistics (chủ yếu về kết nối hạ tầng giao thông; tính kết nối của các loại hình vận tải; phát triển doanh nghiệp và nguồn lực phục vụ logistics).

- Phối hợp hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp, giảm tối đa số lần thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp, kể cả thanh tra, kiểm tra chuyên ngành.

- Thực hiện đánh giá tính sáng tạo và kết quả điều hành của các sở, ban ngành và Ủy ban nhân dân cấp huyện theo chỉ số cạnh tranh cấp sở, cấp huyện.

- Kết hợp thực hiện Nghị quyết số 19-2018/NQ-CP của Chính phủ với cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh.

[...]