Kế hoạch 2343/KH-UBND năm 2018 thực hiện Chương trình mục tiêu công nghệ thông tin giai đoạn 2018-2020 trên địa bàn tỉnh Điện Biên

Số hiệu 2343/KH-UBND
Ngày ban hành 23/08/2018
Ngày có hiệu lực 23/08/2018
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Điện Biên
Người ký Lê Văn Quý
Lĩnh vực Công nghệ thông tin

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH ĐIỆN BIÊN
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 2343/KH-UBND

Điện Biên, ngày 23 tháng 8 năm 2018

 

KẾ HOẠCH

THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU CÔNG NGHỆ THÔNG TIN GIAI ĐOẠN 2018 - 2020 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN

I. THỰC TRẠNG VÀ SỰ CẦN THIẾT VỀ NỘI DUNG, NHIỆM VỤ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH

1. Thực trạng

1.1. Hạ tầng công nghệ thông tin:

Trong những năm qua, tỉnh Điện Biên luôn coi trọng và quan tâm thúc đẩy phát triển công nghệ thông tin. Nhiều văn bản được ban hành, công tác chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin đã được đẩy mạnh từ tỉnh đến cơ sở. Các ngành, các địa phương đã tích cực triển khai thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh để đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. Hầu hết các cơ quan, tổ chức đã có ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác chỉ đạo điều hành, giải quyết công việc, các thủ tục hành chính làm tăng hiệu quả, tăng năng suất, chất lượng, tăng tính minh bạch trong hoạt động của cơ quan nhà nước, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, cụ thể như sau:

Trung tâm tích hợp dữ liệu tại Văn phòng UBND tỉnh đã được đầu tư xây dựng với 12 máy chủ, phục vụ hoạt động của Cổng thông tin điện tử tỉnh, hệ thống thư điện tử công vụ, phần mềm quản lý hồ sơ công việc, phần mềm chỉ đạo điều hành, trang công báo tỉnh, quy phạm pháp luật. Tỷ lệ máy tính/cán bộ công chức trong các cơ quan Nhà nước cấp tỉnh, cấp huyện đạt khoảng 110%, cấp xã đạt khoảng 77%. 100% cơ quan Nhà nước từ cấp huyện trở lên được kết nối mạng nội bộ (LAN) và mạng Internet tốc độ cao, 100% xã được kết nối Internet. Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng và Nhà nước đã được xây dựng và kết nối từ Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đến các Sở, ban, ngành.

Công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin trong ứng dụng CNTT tại các cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã được quan tâm, tỷ lệ cơ quan đầu tư trang bị phần mềm diệt virus cho máy tính và mạng máy tính ngày càng tăng. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế: Phần lớn các cơ quan đều không trang bị các thiết bị bảo mật (Firewall), hệ thống sao lưu dữ liệu (San, Nat); chưa có quy trình chuẩn về vận hành, bảo trì, bảo dưỡng định kỳ cho hệ thống, chưa áp dụng chuẩn an toàn thông tin...

1.2. Ứng dụng CNTT trong nội bộ cơ quan nhà nước

Các cơ quan Nhà nước trên địa bàn tỉnh đã có nhiều chuyển biến tích cực trong việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và thực hiện nhiệm vụ được giao.

Hệ thống giao ban trực tuyến của tỉnh đã được lắp đặt thông suốt giữa UBND tỉnh, các cơ quan ban ngành tỉnh với 10/10 huyện, thị xã, thành phố phát huy hiệu quả sử dụng. Bảo đảm các điều kiện về kỹ thuật cho 100% các cuộc họp trực tuyến của UBND tỉnh với Chính phủ, các Bộ, Ban, ngành và với UBND các huyện, thị xã, thành phố.

Việc trao đổi văn bản điện tử giữa các cơ quan Nhà nước đã được chú trọng thực hiện, 100% các cơ quan nhà nước các cấp đã được trang bị các phần mềm có chức năng quản lý văn bản và điều hành qua mạng. Công tác kết nối liên thông hệ thống quản lý văn bản và điều hành đang tiếp tục được triển khai.

Các cơ quan, đơn vị trong tỉnh bước đầu đã triển khai một số CSDL chuyên ngành phục vụ cho công tác chuyên môn, song chưa có sự kết nối, chia sẻ dữ liệu với nhau nên dễ dẫn đến trùng lặp dữ liệu.

1.3. Ứng dụng CNTTphục vụ người dân và doanh nghiệp

Cổng thông tin điện tử của tỉnh đã phát huy hiệu quả cung cấp đầy đủ thông tin theo quy định tại Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ Quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước.

100% cơ quan Nhà nước từ cấp huyện trở lên đã có cổng/trang thông tin điện tử, cơ bản đáp ứng yêu cầu. Trên trang/cổng thông tin điện tử của cơ quan Nhà nước các dịch vụ công trực tuyến đã được cung cấp đầy đủ ở mức độ 1,2.

Hệ thống một cửa theo hướng hiện đại đã được đầu tư xây dựng, đến nay có 24 cơ quan, đơn vị (tăng 13 cơ quan so với năm 2016) đã triển khai thực hiện: Văn phòng UBND tỉnh, Sở Nội vụ, Sở Y tế, 9/10 UBND các huyện, thị xã, thành phố (đạt tỷ lệ 41,4%, UBND huyện Nậm Pồ chưa được đầu tư); 12/130 xã, phường, thị trấn (đạt tỷ lệ 9,2%).

1.4. Tồn tại hạn chế

Việc tổ chức triển khai các Chương trình, Dự án về CNTT chưa đồng bộ; ứng dụng CNTT trong quản lý còn bất cập; việc triển khai các phần mềm dùng chung còn ít và hiệu quả chưa cao; cơ sở dữ liệu còn phân tán, dịch vụ công trực tuyến qua mạng triển khai chậm, hạ tầng CNTT phát triển chưa đồng đều giữa các vùng; chất lượng một số dịch vụ cơ bản ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp, hệ thống mạng máy tính chưa đồng bộ, hiệu quả sử dụng thiết bị đã đầu tư chưa cao; kỹ năng ứng dụng CNTT trong cán bộ, công chức, viên chức ở các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp còn yếu và chưa đồng đều; nguồn nhân lực chuyên trách về CNTT còn thiếu, trình độ chuyên môn hạn chế.

2. Sự cần thiết

Trong thời gian qua, CNTT được ứng dụng rộng rãi và trở thành một ngành kinh tế có tác động lan tỏa trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, chất lượng cuộc sống, chỉ số phát triển con người Việt Nam và nâng cao khả năng phòng thủ quốc gia trong chiến tranh mạng.

Tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế đã nêu rõ “Công nghệ thông tin là một công cụ hữu hiệu tạo lập phương thức phát triển mới và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới: là một trong những động lực quan trọng phát triển kinh tế tri thức, xã hội thông tin, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế; góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững đất nước”. Bộ Chính trị cũng xác định mục tiêu, nhiệm vụ “Xây dựng hạ tầng thông tin quốc gia hiện đại, chuẩn hóa, đồng bộ, liên thông, bảo đảm khả năng tiếp cận và sử dụng cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người dân. Kết nối băng rộng, chất lượng cao đến tất cả các xã, phường, thị trấn, cơ sở giáo dục. Mở rộng kết nối với các nước trong khu vực và trên thế giới. Triển khai và sử dụng có hiệu quả mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan đảng và nhà nước.”

Tại Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 15/4/2015 của Chính phủ xác định mục tiêu xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử trong 3 năm 2015-2017 là “Đẩy mạnh phát triển Chính phủ điện tử, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn.”

Trong nội dung Chỉ thị số 51-CT/TU ngày 23/12/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu “Xây dựng hệ thống hạ tầng thông tin đồng bộ, hiện đại đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới”, "Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu điện tử để phục vụ hoạt động của các cấp, các ngành", "Tăng cường sử dụng hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến của tỉnh; thực hiện nghiêm túc quy định về sử dụng hồ sơ, văn bản điện tử, chữ ký số thông qua hệ thống mạng nội bộ, phần mềm quản lý văn bản và hồ sơ công việc, hệ thống email, trang/cổng thông tin điện tử nhằm giảm bớt giấy tờ, chi phí, thuận tiện trao đổi và quản lý công việc" và “đảm bảo an toàn, an ninh thông tin”.

Tỉnh, thành phố điện tử là đích đến cuối cùng của mọi nỗ lực ứng dụng và phát triển CNTT của một tỉnh, thành phố, trong đó phần cốt lõi, chủ đạo là xây dựng được Chính quyền điện tử phục vụ người dân và doanh nghiệp. Quan điểm xây dựng hạ tầng kỹ thuật CNTT đồng bộ, hiện đại - nền tảng cơ bản để ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin phục vụ xây dựng Chính quyền điện tử phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và xu hướng phát triển CNTT của thời đại.

II. CĂN CỨ ĐỀ XUẤT THỰC HIỆN CÁC NỘI DUNG, NHIỆM VỤ CỦA CHƯƠNG TRÌNH

1. Cơ sở pháp lý Trung ương

Luật Công nghệ thông tin ngày 29 tháng 6 năm 2006.

[...]