CÁC
HƯỚNG DẪN CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ PHÒNG NGỪA PHẠM PHÁP Ở NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
(CÁC HƯỚNG DẪN RI-ÁT), 1990
(Được thông qua
và tuyên bố bởi Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc theo Nghị quyết 45/12 ngày
14/12/1990).
I. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
1. Việc phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành
niên là một bộ phận chính yếu của phòng ngừa tội phạm trong xã hội. Bằng việc
tham gia các hoạt động hợp pháp, hữu ích về mặt xã hội và có định hướng mang
tính nhân văn đối với xã hội và quan niệm cuộc sống, người chưa thành niên có
thể hình thành một thái độ sống không dẫn đến phạm tội.
2. Việc phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành
niên một cách thành công đòi hỏi phải có sự nỗ lực của toàn xã hội, nhằm bảo
đảm sự phát triển hài hòa của người chưa thành niên, tôn trọng và phát triển
nhân cách của họ ngay từ tuổi ấu thơ.
3. Để giải thích Hướng dẫn này, cần thực hiện
phương hướng lấy trẻ em làm trung tâm. Người chưa thành niên cần có một vai trò
và sự tham gia tích cực trong xã hội, và không được coi họ là đối tượng đơn
thuần của việc xã hội hóa hay sự kiểm soát.
4. Trong khi thực hiện Hướng dẫn này, phù hợp với
các hệ thống pháp luật quốc gia, phúc lợi của người chưa thành niên từ tuổi ấu
thơ phải là trọng tâm của bất kỳ một chương trình phòng ngừa nào.
5. Cần nhận thấy sự cần thiết và tầm quan trọng của
các chính sách tiến bộ về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên cũng như
việc nghiên cứu có hệ thống và đề ra các biện pháp. Cần tránh hình sự hóa và xử
phạt trẻ em vì một hành vi không gây thiệt hại nghiêm trọng cho sự phát triển của
trẻ, hay không làm nguy hại cho người khác. Những chính sách và biện pháp đó
cần bao gồm:
a. Tạo cơ hội, đặc biệt là những cơ hội giáo dục để
đáp ứng các nhu cầu khác nhau của người chưa thành niên, và tạo ra một khuôn
khổ hỗ trợ nhằm bảo vệ sự phát triển cá nhân của người chưa thành niên, đặc
biệt là những người đang gặp nguy hiểm, có nguy cơ chịu những rủi ro về mặt xã
hội và đang cần sự chăm sóc, bảo vệ đặc biệt.
b. Có những quan điểm và phương pháp tiếp cận
chuyên biệt đối với việc phòng ngừa tội phạm, trên cơ sở luật pháp, các quá
trình, thể chế, phương tiện và một mạng lưới cung ứng dịch vụ nhằm giảm thiểu
động cơ thúc đẩy, nhu cầu và cơ hội, hay những điều kiện dẫn đến việc phạm tội.
c. Cần có sự can thiệp chính thức chủ yếu vì lợi
ích chung của người chưa thành niên, và cần được thực hiện trên tinh thần công
bằng và bình đẳng.
d. Bảo vệ hạnh phúc, sự phát triển, quyền và lợi
ích của mọi người chưa thành niên.
e. Cần nhận thức rằng rằng những hành vi hay xử sự
của tuổi trẻ không phù hợp với các chuẩn mực và giá trị xã hội chung thường là
một phần của quá trình trưởng thành và phát triển, chúng có xu hướng mất đi ở
hầu hết mọi cá nhân cùng với quá trình chuyển sang giai đoạn trưởng thành.
f. Cần nhận thức rằng, theo ý kiến chiếm ưu thế của
các chuyên gia, việc gán cho người chưa thành niên những tính chất như “lầm
đường lạc lối”, “phạm pháp” hay “tiền sử phạm pháp” thường góp phần làm phát
triển ở các em một kiểu hành vi tiêu cực.
6. Cần phát triển các chương trình và công việc dựa
vào cộng đồng để phòng ngừa tình trạng phạm pháp ở người chưa thành niên, đặc
biệt ở những nơi chưa có cơ quan nào được thành lập. Chỉ nhờ tới các cơ quan
chính thức làm công việc kiểm soát xã hội như là một biện pháp cuối cùng.
II. PHẠM VI CỦA HƯỚNG DẪN
7. Hướng dẫn này cần được giải thích và thực hiện
trong phạm vi khuôn khổ của Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người,
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị, Tuyên ngôn về quyền trẻ em, Công ước về quyền
trẻ em, và trong phạm vi của Quy tắc chuẩn mực, tối thiểu của Liên Hợp Quốc về
hoạt động tư pháp liên quan đến người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh),
cũng như những văn kiện và tiêu chuẩn khác có liên quan tới các quyền, lợi ích
và phúc lợi của mọi trẻ em và người chưa thành niên.
8. Hướng dẫn này cần được thực hiện phù hợp với
điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa hiện hành ở mỗi Quốc gia thành viên.
III. BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA CHUNG
9. Cần xây dựng những kế hoạch phòng ngừa toàn diện
ở tất cả các cấp chính quyền, bao gồm:
a. Phân tích chuyên sâu các vấn đề và xây dựng các
chương trình, cơ quan thực hiện, cơ sở vật chất và nguồn lực hiện có;
b. Phân định rõ trách nhiệm cho các cơ quan, tổ
chức và cán bộ tham gia vào công tác phòng ngừa tội phạm ở người chưa thành
niên;
c. Xây dựng các cơ chế điều phối thích hợp giữa các
cơ quan chính phủ và tổ chức phi chính phủ trong công tác phòng ngừa;
d. Các chính sách, chương trình và chiến lược dựa
trên cơ sở các nghiên cứu dự đoán phải được giám sát liên tục và đánh giá cẩn
thận trong suốt tiến trình thực hiện;
e. Đưa ra các phương pháp làm giảm một cách có hiệu
quả các khả năng phạm tội;
f. Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng thông qua
một hệ thống các dịch vụ và chương trình;
g. Cần có sự hợp tác chặt chẽ liên ngành giữa chính
quyền các cấp gồm địa phương, tỉnh, bang, quốc gia, với sự tham gia của khu vực
tư nhân, những tổ chức dựa trên cộng đồng, các cơ quan về lao động, chăm sóc
trẻ em, giáo dục sức khỏe, các tổ chức xã hội, các cơ quan hành pháp và tư pháp
trong việc thực hiện những hành động phối hợp để phòng ngừa phạm pháp ở người
chưa thành niên;
h. Khuyến khích sự tham gia của giới trẻ vào các chính
sách và tiến trình phòng ngừa phạm pháp, trong đó có việc huy động các nguồn
lực của cộng đồng, tính tự lực của người chưa thành niên và những chương trình
giúp đỡ, bồi thường cho nạn nhân;
i. Cần có các cán bộ chuyên môn ở tất cả các cấp.
IV. CÁC TIẾN TRÌNH XÃ HỘI HÓA
10. Cần chú trọng đến các chính sách phòng ngừa tạo
thuận lợi cho việc xã hội hóa và hòa nhập thành công của mọi người chưa thành
niên và trẻ em, đặc biệt thông qua gia đình, cộng đồng, các nhóm đồng đẳng,
trường học, đào tạo nghề và công việc, cũng như thông qua những tổ chức tự
nguyện. Cần tôn trọng thích đáng sự phát triển cá nhân phù hợp của trẻ em và
người chưa thành niên và nên chấp nhận họ như là các thành viên tham gia đầy
đủ, bình đẳng trong các quá trình xã hội hóa và hòa nhập.
A. Gia đình
11. Mỗi xã hội cần đặt ưu tiên cao cho các nhu cầu
và phúc lợi của gia đình và tất cả thành viên trong gia đình.
12. Gia đình là đơn vị trung tâm chịu trách nhiệm
chính yếu đối với việc giúp trẻ em hòa nhập với xã hội, do vậy nhà nước và xã
hội cần phải cố gắng bảo vệ sự toàn vẹn của gia đình, bao gồm cả gia đình mở
rộng. Xã hội có trách nhiệm giúp đỡ gia đình trong việc chăm sóc và bảo vệ, bảo
đảm sức khỏe về thể chất và tinh thần cho trẻ em. Cần cung cấp đầy đủ các dịch
vụ hỗ trợ các gia đình, trong đó có cả dịch vụ trông nom trẻ ban ngày.
13. Các chính phủ cần xây dựng những chính sách có
lợi cho việc nuôi dưỡng trẻ em trong những môi trường gia đình bền vững và ổn
định. Cần cung cấp các dịch vụ tất yếu cho những gia đinh cần sự giúp đỡ để
giải quyết những điều kiện bất ổn hay xung đột.
14. Ở nơi thiếu môi trường gia đình bền vững, ổn
định và khi các cố gắng của cộng đồng để giúp đỡ các bậc cha mẹ về mặt này đều
thất bại và gia đình mở rộng không thể hoàn thành vai trò này, thì cần xem xét
đến các cách thu xếp khác bao gồm cả việc gửi nuôi và nhận con nuôi. Khi tiến
hành những thu xếp như vậy, cần cố gắng ở mức có thể được để tạo ra một môi
trường gia đình bền vững, ổn định; đồng thời cần tạo cho trẻ em ý thức về một
cuộc sống ổn định để tránh dẫn đến tình trạng gửi nuôi hết nơi này đến nơi khác.
15. Cần chú ý đặc biệt tới các trẻ em của những gia
đình bị ảnh hưởng bởi các vấn đề do sự thay đổi nhanh chóng và bất thường về
kinh tế, văn hóa, xã hội tạo ra, đặc biệt là trẻ em của những gia đình người
bản xứ phải di cư và trở thành người tỵ nạn. Những thay đổi như vậy có thể
khiến cho các gia đình mất khả năng duy trì việc nuôi dạy con cái theo truyền
thống, thường là do hậu quả của sự xung đột về văn hóa và vai trò; do vậy cần
đưa ra các phương thức mới, có tính xây dựng nhằm giúp trẻ em hòa nhập với xã
hội.
16. Cần áp dụng các biện pháp và xây dựng những
chương trình để tạo cơ hội cho gia đình nâng cao nhận thức về vai trò và nghĩa
vụ của cha mẹ đối với sự phát triển và chăm sóc trẻ em, thúc đẩy mối quan hệ
tích cực giữa cha mẹ và con cái, giúp cha mẹ thấu hiểu và cảm thông với những
vấn đề của trẻ em và người chưa thành niên, và khuyến khích các em tham gia vào
những hoạt động trong gia đình và cộng đồng.
17. Các chính phủ cần áp dụng những biện pháp làm
tăng sự bền vững và hòa thuận của gia đình, ngăn cản việc cách ly trẻ em khỏi
cha mẹ, trừ khi không có cách lựa chọn nào khác do tác động của hoàn cảnh và vì
phúc lợi và tương lai của trẻ.
18. Cần chú trọng đến chức năng xã hội hóa của gia
đình và gia đình mở rộng; đồng thời cần phải nhận thức được vai trò, tương lai,
trách nhiệm, sự tham gia và hợp tác của người chưa thành niên trong xã hội.
19. Để đảm bảo quyền trẻ em được hòa nhập vào xã
hội một cách phù hợp, các chính phủ và các tổ chức khác cần dựa trên những tổ
chức xã hội và cơ quan luật pháp hiện có, nhưng khi các tập quán và thể chế
truyền thống không mang lại hiệu quả thì chính phủ và các tổ chức khác cần đưa
ra và cho phép áp dụng các biện pháp mang tính đổi mới.
B. Giáo dục
20. Các chính phủ có nghĩa vụ bảo đảm cho mọi người
chưa thành niên có thể tiếp cận được với giáo dục phổ thông.
21. Ngoài những hoạt động dạy văn hóa và đào tạo
nghề, các hệ thống giáo dục cần đặc biệt chú ý đến các vấn đề sau:
a. Dạy các giá trị cơ bản và phát huy sự tôn trọng
đối với các đặc thù và bản sắc văn hóa riêng của trẻ em, tôn trọng các giá trị
xã hội của đất nước mà trẻ em đang sống cũng như các nền văn minh khác với nền
văn minh của trẻ em và tôn trọng đối với các quyền và tự do cơ bản của con
người;
b. Nâng cao và phát triển tới mức cao nhất nhân
cách, tài năng, các khả năng tinh thần và thể chất của người chưa thành niên;
c. Huy động người chưa thành niên tham gia tích cực
và có hiệu quả vào quá trình giáo dục, chứ không chỉ coi họ là những đối tượng
đơn thuần của quá trình này.
d. Tiến hành các hoạt động bồi dưỡng ý thức gắn bó
với nhà trường và cộng đồng.
đ. Khuyến khích người chưa thành niên hiểu biết và
tôn trọng các quan điểm, ý kiến khác nhau cũng như những khác biệt về văn hóa
và các khác biệt khác;
e. Cung cấp thông tin và hướng dẫn về đào tạo nghề,
các cơ hội tìm việc làm và phát triển nghề nghiệp;
g. Tích cực giúp đỡ về mặt tình cảm cho người chưa
thành niên và tránh ngược đãi về tâm lý;
h. Tránh các biện pháp kỷ luật hà khắc, đặc biệt là
dùng biện pháp nhục hình.
22. Các hệ thống giáo dục cần cố gắng phối hợp với
cha mẹ, những cơ quan và tổ chức trong cộng đồng có liên quan đến hoạt động của
người chưa thành niên.
23. Cần thông báo cho người chưa thành niên và gia
đình họ về pháp luật, những quyền và trách nhiệm của họ được pháp luật quy
định, cũng như hệ thống giá trị mang tính toàn cầu, bao gồm cả những văn kiện
của Liên Hợp Quốc.
24. Các hệ thống giáo dục cần mở rộng sự chăm sóc
và chú ý đặc biệt tới những người trẻ tuổi gặp nguy hiểm trong xã hội. Cần phát
triển và sử dụng đầy đủ các chương trình phòng ngừa đặc biệt và những tài liệu,
chương trình học tập, phương pháp và dụng cụ giáo dục.
25. Cần đặc biệt chú ý đến các chính sách và chiến
lược tổng thể về phòng chống nghiện rượu, ma túy và các chất kích thích khác ở
người chưa thành niên. Cần trang bị và huấn luyện cho giáo viên và cán bộ
chuyên môn khác ngăn ngừa và giải quyết những vấn đề này. Phải cung cấp đầy đủ
thông tin về việc sử dụng và lạm dụng ma túy, bao gồm cả rượu, cho đội ngũ học
sinh.
26. Các trường học cần đóng vai trò như là những
trung tâm nguồn và trung chuyển trong việc cung cấp các dịch vụ y tế, tư vấn và
những dịch vụ khác cho người chưa thành niên, đặc biệt là những người có các
nhu cầu đặc biệt và đang phải chịu đựng sự lạm dụng, bỏ mặc, ngược đãi và bóc
lột.
27. Thông qua nhiều chương trình giáo dục đa dạng,
cần giúp cho giáo viên, người trưởng thành và cơ quan có liên quan đến học
sinh, sinh viên nhận thức được các vấn đề, nhu cầu và những quan điểm của người
chưa thành niên, đặc biệt là những người dân tộc thiểu số, những người thuộc
tầng lớp có thu nhập thấp và chịu nhiều thiệt thòi.
28. Các hệ thống trường học cần cố gắng đáp ứng và
thúc đẩy những tiêu chuẩn đào tạo và nghiệp vụ cao nhất, trong đó chú ý đến
chương trình học, phương pháp dạy và học, các cách thức tiếp cận học sinh, đồng
thời quan tâm đến việc tuyển dụng và đào tạo giáo viên có trình độ. Các tổ chức
liên quan về chuyên môn và những cơ quan có thẩm quyền cần bảo đảm giám sát và
đánh giá thường xuyên việc thực hiện.
29. Các hệ thống trường học cần phối hợp với những
nhóm cộng đồng để xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện các hoạt động ngoại
khóa phù hợp với sở thích của người chưa thành niên.
30. Cần hỗ trợ đặc biệt cho những trẻ em và người
chưa thành niên gặp khó khăn trong việc tuân thủ các quy định về giờ lên lớp và
những trường hợp bỏ học giữa chừng.
31. Các trường học cần đề ra những chính sách và
quy định công bằng và hợp lý. Học sinh cần có đại diện tham gia trong những tổ
chức hoạch định chính sách của nhà trường, bao gồm các chính sách về kỷ luật và
ra quyết định.
C. Cộng đồng
32. Cần xây dựng hoặc củng cố, nếu đã có sẵn, các
dịch vụ và chương trình được xây dựng trên cơ sở cộng đồng nhằm đáp ứng những
nhu cầu, lợi ích và các mối quan tâm đặc biệt của người chưa thành niên, đồng
thời tư vấn, hướng dẫn thích hợp cho người chưa thành niên và gia đình họ.
33. Các cộng đồng cần cung cấp hay củng cố, nếu đã
có sẵn, nhiều loại biện pháp hỗ trợ dựa vào cộng đồng dành cho người chưa thành
niên, gồm những trung tâm phát triển cộng đồng, các địa điểm vui chơi giải trí,
các tổ chức giải quyết các vấn đề đặc biệt của các trẻ em đang gặp nguy hiểm về
mặt xã hội. Cần bảo đảm tôn trọng các quyền cá nhân khi cung ứng những biện
pháp hỗ trợ này.
34. Cần thành lập các cơ sở đặc biệt để cung cấp
nơi ở cho những người chưa thành niên không thể tiếp tục sống ở nhà mình hay
không có nhà để ở.
35. Cần cung cấp các loại dịch vụ và biện pháp giúp
đỡ để giải quyết những khó khăn mà người chưa thành niên phải trải qua khi
chuyển sang giai đoạn trưởng thành. Các dịch vụ như vậy cần bao gồm những
chương trình đặc biệt cho người chưa thành niên nghiện ma túy, chú trọng tới
việc chăm sóc, tư vấn, giúp đỡ và các biện pháp can thiệp theo hướng trị liệu.
36. Chính phủ và các thể chế khác cần có sự hỗ trợ
về tài chính và các hình thức hỗ trợ khác dành cho các tổ chức tình nguyện cung
cấp dịch vụ cho người chưa thành niên.
37. Cần thành lập hay củng cố những tổ chức của
giới trẻ ở các cấp cơ sở và tạo điều kiện cho các tổ chức này được tham gia đầy
đủ vào việc quản lý những vấn đề của cộng đồng. Các tổ chức này cần khuyến
khích giới trẻ tổ chức những dự án tập thể và tình nguyện, đặc biệt là các dự
án nhằm trợ giúp những người chưa thành niên cần sự giúp đỡ.
38. Các cơ quan chính phủ cần có trách nhiệm đặc
biệt trong việc cung cấp các dịch vụ cần thiết cho trẻ em không có nhà cửa hoặc
lang thang, cơ nhỡ, cần cung cấp thông tin cho người chưa thành niên về các cơ
sở hỗ trợ tại địa phương, về nơi ăn chốn ở, việc làm và các nguồn hỗ trợ khác
của địa phương.
39. Cần thành lập nhiều loại phương tiện, dịch vụ
giải trí mà người chưa thành niên đặc biệt ưa thích và có thể tiếp cận dễ dàng.
D. Thông tin đại chúng
40. Cần khuyến khích các phương tiện thông tin đại
chúng bảo đảm cho người chưa thành niên tiếp cận được thông tin và tài liệu từ
nhiều nguồn đa dạng trong nước và quốc tế.
41. Cần khuyến khích các phương tiện thông tin đại
chúng đưa tin về sự đóng góp tích cực của người chưa thành niên cho xã hội.
42. Cần khuyến khích các phương tiện thông tin đại
chúng phổ biến thông tin về những dịch vụ, các cơ sở và cơ hội hiện có trong xã
hội dành cho người chưa thành niên.
43. Cần khuyến khích các phương tiện thông tin đại
chúng nói chung, vô tuyến truyền hình và phim ảnh nói riêng, giảm thiểu việc
đưa văn hóa phẩm khiêu dâm, những hình ảnh về ma túy và bạo lực trên phim; lên
án bạo lực và bóc lột, tránh đưa các thông tin có tính chất thiếu tôn trọng,
đặc biệt là về trẻ em, phụ nữ và quan hệ giữa người với người; nâng cao nguyên
tắc và vai trò bình đẳng.
44. Thông tin đại chúng cần nhận thức được vai trò
và trách nhiệm to lớn cũng như ảnh hưởng xã hội rộng lớn của mình trong công
tác truyền thông liên quan đến vấn đề lạm dụng rượu và ma túy trong giới trẻ.
Thông tin đại chúng cần sử dụng thế mạnh của mình vào công tác phòng ngừa lạm
dụng ma túy, bằng cách phổ biến liên tục và nhất quán các thông điệp thông qua
cách tiếp cận có cân nhắc. Cần thúc đẩy những chiến dịch tuyên truyền về phòng
chống ma túy một cách có hiệu quả ở tất cả các cấp.
V. CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
45. Các cơ quan của chính phủ cần đặt ưu tiên cao
cho những kế hoạch và chương trình cho người chưa thành niên; cung cấp đủ kinh
phí và các nguồn lực khác để phân phối hiệu quả những dịch vụ, phương tiện và
cán bộ cho việc chăm sóc đầy đủ về sức khỏe, tinh thần, dinh dưỡng, các dịch vụ
nhà ở và những dịch vụ liên quan khác, kể cả việc ngăn ngừa và chữa trị nạn lạm
dụng rượu và ma túy, bảo đảm cho các nguồn lực này đến được với người chưa
thành niên và thực sự có ích cho họ.
46. Việc đưa người chưa thành niên vào các cơ sở
tập trung là biện pháp cuối cùng và chỉ nên thực hiện trong một giai đoạn cần
thiết tối thiểu và lợi ích tốt nhất của người chưa thành niên là vấn đề tối
quan trọng... Các tiêu chí cho phép can thiệp chính thức theo hình thức này cần
được xác định nghiêm ngặt và giới hạn trong các tình huống sau:
a. Khi trẻ em hay người chưa thành niên đã chịu
đựng tác hại do cha mẹ hoặc người giám hộ gây ra;
b. Khi trẻ em hay người chưa thành niên bị cha mẹ
hoặc người giám hộ lạm dụng về tình cảm, thể xác hay tình dục;
c. Khi trẻ em hay người chưa thành niên bị cha mẹ
hoặc người giám hộ bỏ mặc, bỏ rơi hay bóc lột;
d. Khi trẻ em hay người chưa thành niên có nguy cơ
bị đe dọa về tinh thần hay thể xác do hành vi của cha mẹ hay người giám hộ gây
ra;
e. Khi sự nguy hiểm nghiêm trọng về thể chất hay
tâm lý đối với trẻ em hay người chưa thành niên biểu lộ ngay trong hành vi của
họ mà cha mẹ, người giám hộ hay chính họ, cũng như những tổ chức dịch vụ cộng
đồng không thể làm gì để ngăn cản ngoài việc đưa họ vào các cơ sở tập trung.
47. Các cơ quan chính phủ cần tạo cơ hội cho người
chưa thành niên được giáo dục thường xuyên và đầy đủ, với nguồn kinh phí của
nhà nước trong trường hợp cha mẹ hay người giám hộ không đủ điều kiện hỗ trợ,
và cho họ cơ hội được làm việc.
48. Các chương trình phòng ngừa phạm pháp cần được
lập kế hoạch và thực hiện trên cơ sở những kết quả nghiên cứu khoa học đáng tin
cậy, được kiểm tra thường xuyên, đánh giá và điều chỉnh cho phù hợp.
49. Cần phổ biến các thông tin khoa học cho giới
chuyên môn và cho công chúng về loại hành vi hay tình huống có thể dẫn đến việc
đối xử tàn nhẫn về mặt thể xác và tâm lý, gây hại và lạm dụng, cũng như bóc lột
đối với người chưa thành niên.
50. Nói chung, sự tham gia vào các kế hoạch và
chương trình phải là tự nguyện. Chính người chưa thành niên cần được huy động
vào việc hoạch định, phát triển và thực hiện những kế hoạch và chương trình này.
51. Các chính phủ cần bắt đầu hay tiếp tục khai
thác, phát triển và thực hiện những chính sách, biện pháp và chiến lược trong và
ngoài hệ thống tư pháp hình sự để phòng ngừa bạo lực trong gia đình chống lại
và tác động đến người chưa thành niên, bảo đảm đối xử công bằng với những nạn
nhân của tình trạng bạo lực trong gia đình.
VI. CÔNG TÁC LẬP PHÁP VÀ THI
HÀNH CÔNG LÝ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
52. Các chính phủ cần ban hành và thực hiện những
đạo luật và thủ tục đặc biệt nhằm thúc đẩy, bảo vệ các quyền và phúc lợi của
mọi người chưa thành niên.
53. Phải ban hành và thực hiện pháp luật phòng ngừa
việc đối xử tàn nhẫn, lạm dụng, bóc lột và sử dụng trẻ em và người chưa thành
niên vào các hoạt động tội phạm.
54. Không một trẻ em hoặc người chưa thành niên nào
phải chịu những biện pháp trừng phạt, đối xử tàn ác, hoặc hạ thấp nhân phẩm ở
nhà, ở trường hay bất cứ cơ sở tập trung nào.
55. Phải ban hành và thực hiện pháp luật nhằm hạn
chế và kiểm soát việc trẻ em và người chưa thành niên có thể tiếp cận bất kỳ
loại vũ khí nào.
56. Để ngăn chặn việc bêu xấu, đối xử tàn tệ và
hình sự hóa thêm đối với người chưa thành niên, cần ban hành pháp luật để bảo
đảm rằng bất kỳ một hành vi nào do người trưởng thành thực hiện mà không bị coi
là tội phạm hay không bị trừng phạt, thì hành vi đó cũng không bị coi là tội
phạm hay không bị trừng phạt nếu do người chưa thành niên thực hiện.
57. Cần xem xét thành lập một cơ quan thanh tra
hoặc một cơ quan độc lập tương tự để bảo đảm rằng địa vị, quyền và lợi ích của
người chưa thành niên được coi trọng, và việc trung chuyển họ một cách hợp thức
tới các dịch vụ sẵn có để xử lý được thực hiện. Cơ quan thanh tra đó hay cơ
quan khác được thiết lập cũng sẽ giám sát việc thực hiện Hướng dẫn
Ri-át, Quy tắc Bắc Kinh và Quy tắc bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự
do. Cơ quan thanh tra này hay cơ quan độc lập tương tự khác phải thường xuyên
báo cáo về tiến bộ đã đạt được và những khó khăn gặp phải trong việc thực hiện
văn kiện này. Các dịch vụ luật sư biện hộ cho trẻ em cũng cần được thiết lập.
58. Cán bộ thi hành pháp luật và những người liên
quan khác, cả nam và nữ, cần được huấn luyện để đáp ứng các nhu cầu của người
chưa thành niên và cần được làm quen, sử dụng tới mức tối đa các chương trình
và các khả năng có thể trung chuyển họ cho cơ quan khác xử lý để tránh sự can
thiệp của hệ thống tư pháp.
59. Cần ban hành và thực hiện pháp luật một cách
nghiêm ngặt để bảo vệ trẻ em và người chưa thành niên khỏi lạm dụng và buôn bán
ma túy.
VII. NGHIÊN CỨU, XÂY DỰNG CHÍNH
SÁCH VÀ PHỐI HỢP
60. Cần cố gắng xây dựng những cơ chế thích hợp để
trao đổi và phối hợp hoạt động trên cơ sở liên ngành và trong nội bộ ngành giữa
các tổ chức và cơ quan y tế, giáo dục, xã hội và kinh tế, hệ thống tư pháp,
những tổ chức người chưa thành niên, cộng đồng và phát triển, các tổ chức liên
quan khác.
61. Việc trao đổi thông tin, kinh nghiệm và chuyên
môn thu được qua các dự án, chương trình, thực tiễn và sáng kiến liên quan đến
việc phòng ngừa phạm tội và phạm pháp ở giới trẻ, và tư pháp vị thành niên cần
được tăng cường ở cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế.
62. Cần phát triển và tăng cường hơn nữa sự hợp tác
khu vực và quốc tế về các vấn đề phòng ngừa phạm tội và phạm pháp ở giới trẻ,
và tư pháp vị thành niên, với sự tham gia của những người làm công tác thực
tiễn, các chuyên gia và những nhà lãnh đạo.
63. Các chính phủ, hệ thống Liên Hợp Quốc và những
tổ chức liên quan khác cần hỗ trợ mạnh mẽ sự hợp tác kỹ thuật và khoa học về
các vấn đề thực tiễn và liên quan đến chính sách, đặc biệt trong tập huấn, thực
hiện các dự án thí điểm về vấn đề cụ thể liên quan đến phòng ngừa giới trẻ phạm
tội và phạm pháp.
64. Cần khuyến khích hợp tác trong việc tiến hành
nghiên cứu khoa học về các phương thức phòng ngừa giới trẻ phạm tội và phạm
pháp. Những kết quả nghiên cứu đó cần được đánh giá và phổ biến rộng rãi.
65. Trên cơ sở Hướng dẫn này, Ban Thư ký Liên Hợp
Quốc phối hợp với những cơ quan hữu quan khác cần đóng vai trò tích cực trong
việc tiến hành nghiên cứu, hợp tác khoa học, đề ra các chính sách, xem xét,
theo dõi việc thực hiện những chính sách đó, và làm nguồn thông tin tin cậy về
các phương thức có hiệu quả trong việc phòng ngừa tội phạm.