Hiệp định số 216/WTO/VB về thực thi điều VII của hiệp định chung về thuế quan và thương mại-GATT(1994)

Số hiệu 216/WTO/VB
Ngày ban hành 15/04/1994
Ngày có hiệu lực
Loại văn bản WTO_Văn bản
Cơ quan ban hành WTO
Người ký ***
Lĩnh vực Thương mại,Xuất nhập khẩu,Thuế - Phí - Lệ Phí

HIỆP ĐỊNH

THỰC THI ĐIỀU VII CỦA HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THUẾ QUAN VÀ THƯƠNG MẠI - GATT (1994)

GIỚI THIỆU CHUNG

1. Cơ sở chủ yếu để xác định trị giá thuế quan, theo Hiệp định này là “giá trị giao dịch” như định nghĩa tại Điều 1 được hiểu cùng với Điều 8, ngoài các nội dung khác, quy định về sự điều chỉnh giá thanh toán thực tế hoặc giá phải thanh toán, trong trường hợp người mua chịu một số chi phí cấu thành cụ thể nào đó, được coi là đã tạo thành một phần của giá trị mà hải quan dùng để tính thuế, nhưng hiện chưa tính vào giá thực tế đã thanh toán hoặc phải thanh toán cho hàng nhập khẩu. Điều 8 cũng quy định giá trị giao dịch bao gồm cả các chi phí mà người mua thanh toán cho người bán dưới dạng hàng hóa hay dịch vụ cụ thể nào đó chứ không phải dưới dạng tiền. Từ Điều 2 đến Điều 7 quy định các phương pháp xác định trị giá thuế quan khác một khi không thể xác định trị giá này theo các quy định của Điều 1.

2. Khi trị giá thuế quan không thể được xác định theo các quy định của Điều 1, thì thông thường cơ quan hải quan sẽ trao đổi với người nhập khẩu để đạt được cơ sở tính trị giá theo các quy định của Điều 2 hoặc Điều 3. Thí dụ, có thể xảy ra trường hợp nhà nhập khẩu có thông tin về trị giá thuế quan của hàng nhập khẩu giống hệt hoặc tương tự mà cơ quan hải quan tại cảng nhập không có ngay được. Ngược lại, cơ quan hải quan có thể có thông tin về trị giá thuế quan của những mặt hàng giống hệt hoặc tương tự mà nhà nhập khẩu chưa có. Quá trình tham vấn giúp hai bên trao đổi thông tin với tinh thần vẫn đáp ứng được yêu cầu bảo mật thương mại, nhằm định ra một cơ sở để xác định trị giá thuế quan thích hợp.

3. Điều 5 và Điều 6 quy định hai cơ sở để xác định trị giá thuế quan trong trường hợp không thể xác định được bằng cách dựa trên giá trị giao dịch của hàng nhập khẩu, hay của hàng nhập khẩu giống hệt hoặc tương tự. Theo khoản 1 Điều 5, trị giá thuế quan được xác định trên cơ sở giá bán hàng hóa, trong điều kiện là hàng nhập khẩu, cho một người mua không có liên hệ tại nước nhập khẩu. Nhà nhập khẩu cũng có quyền yêu cầu hàng đã được tiếp tục chế biến sau khi nhập khẩu được định giá thuế quan theo Điều 5. Theo Điều 6, trị giá tính thuế được xác định trên cơ sở giá trị tính toán. Cả hai phương pháp trên đều có những khó khăn nhất định và do đó, theo qui định tại Điều 4, người nhập khẩu được phép trao quyền lựa chọn áp dụng phương pháp nào trước.

4. Điều 7 đưa ra phương pháp làm thế nào để xác định trị giá thuế quan trong trường hợp trị giá này không thể xác định được theo các quy định của các Điều trước đó.

 Các Thành viên,

 Trong bối cảnh Đàm phán Thương mại Đa biên;

 Mong muốn thúc đẩy các mục tiêu của GATT 1994 và đảm bảo hơn nữa lợi ích của các nước đang phát triển trong thương mại quốc tế;

 Thừa nhận tầm quan trọng của những quy định tại Điều 7 GATT 1994 và mong muốn chi tiết hóa những quy tắc áp dụng những điều khoản này nhằm đảm bảo tính thống nhất và chắc chắn trong việc thi hành;

 Thừa nhận sự cần thiết của một chế độ định giá hàng hóa một cách thỏa đáng, thống nhất và vô tư vì các mục đích thuế quan, nhằm ngăn chặn việc sử dụng trị giá thuế quan tuỳ tiện hay thái quá;

Thừa nhận rằng cơ sở để định giá hàng hóa vì mục đích thuế quan cần , trong phạm vi rộng nhất có thể, phải là giá trị giao dịch của hàng hóa được định giá;

 Thừa nhận rằng trị giá thuế quan cần dựa trên tiêu chí đơn giản và công bằng, phù hợp với các thông lệ thương mại và những thủ tục định giá này phải được áp dụng chung mà không có sự phân biệt giữa các nguồn cung cấp;

 Thừa nhận rằng không nên dùng những thủ tục định giá để chống bán phá giá hàng hóa;

 Bằng Hiệp định này, thoả thuận như sau:

PHẦN I

NHỮNG QUY TẮC ĐỊNH THUẾ QUAN

Điều 1

1. Trị giá thuế quan của hàng nhập khẩu phải là giá trị giao dịch, tức là giá thực tế đã thanh toán hoặc phải thanh toán cho hàng hóa được bán để xuất khẩu đến nước nhập khẩu có điều chỉnh phù hợp với các quy định ở Điều 8, với điều kiện là:

(a) không có sự hạn chế nào trong việc người mua định đoạt hay sử dụng hàng hóa, trừ những hạn chế: 

(i) đã được áp dụng hoặc quy định bởi luật pháp hoặc bởi các cơ quan có thẩm quyền tại nước nhập khẩu; 

(ii) nhằm giới hạn những khu vực địa lý mà hàng hóa có thể được phép bán lại hoặc: 

(iii) không gây ảnh hưởng lớn tới giá trị hàng hóa. 

(b) việc mua bán hoặc giá cả không phụ thuộc vào điều kiện hoặc suy xét nào đó khiến không thể xác định được giá trị của hàng hóa đang được định giá. 

(c) người bán sẽ không được trực tiếp hoặc gián tiếp hưởng bất kỳ phần nào từ số tiền do người mua thu được qua bán lại, nhượng lại hoặc sử dụng hàng hóa này, trừ một số điều chỉnh hợp lý được phép tại Điều 8 ; và

(d) người mua và người bán không có liên hệ*, hoặc trong trường hợp có liên hệ đó thì giá trị giao dịch chỉ được chấp nhận cho mục đích thuế quan theo các qui định tại khoản 2.

2. (a) Khi quyết định liệu giá trị giao dịch có thể được chấp nhận theo mục đích đã nêu trong khoản 1 nói trên hay không thì việc người mua và người bán có liên hệ trong phạm vi ý nghĩa đã nêu ở Điều 15 tự nó không thể dùng làm căn cứ để bác bỏ việc sử dụng giá trị giao dịch. Trong trường hợp như vậy, các tình huống xung quanh việc mua bán đó sẽ được kiểm tra và giá trị giao dịch sẽ được chấp nhận với với điều kiện sự liên hệ giữa người mua và người bán không ảnh hưởng tới giá cả. Nếu dựa trên các thông tin do nhà nhập khẩu hoặc các nguồn khác cung cấp, cơ quan hải quan có lý do để cho rằng mối liên hệ này ảnh hưởng tới giá cả, thì cơ quan hải quan phải thông báo những lý do này cho người nhập khẩu và người nhập khẩu phải có cơ hội hợp lý để giải trình. Nếu người nhập khẩu yêu cầu, cơ quan hải quan sẽ thông báo bằng văn bản các căn cứ đã áp dụng.

(b) Trong giao dịch mua bán giữa những người có liên hệ, giá trị giao dịch sẽ được chấp nhận và hàng hóa sẽ được định giá theo các qui định tại khoản 1 một khi người nhập khẩu chứng minh được rằng trị giá đó, lấy tại cùng hoặc vào khoảng cùng thời điểm, là rất sát với trị giá trong các trường hợp sau:

(i) trị giá giao dịch của các hàng hóa giống hệt hoặc tương tự được xuất khẩu cho người nhập khẩu không có liên hệ tại nước nhập khẩu; 

[...]