Công văn 480/BKHCN-VP năm 2023 trả lời kiến nghị của cử tri thành phố Hồ Chí Minh do Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành
Số hiệu | 480/BKHCN-VP |
Ngày ban hành | 28/02/2023 |
Ngày có hiệu lực | 28/02/2023 |
Loại văn bản | Công văn |
Cơ quan ban hành | Bộ Khoa học và Công nghệ |
Người ký | Huỳnh Thành Đạt |
Lĩnh vực | Bộ máy hành chính |
BỘ KHOA HỌC VÀ |
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 480/BKHCN-VP |
Hà Nội, ngày 28 tháng 02 năm 2023 |
Kính gửi: Đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh
Sau kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) nhận được Công văn số 176/VPCP-QHĐP ngày 10/01/2023 của Văn phòng Chính phủ về việc giải quyết kiến nghị của cử tri Thành phố Hồ Chí Minh. Bộ KH&CN xin trả lời như sau:
Nội dung kiến nghị: Cử tri kiến nghị Chính phủ có kế hoạch áp dụng khoa học công nghệ vào công tác quản lý lĩnh vực y tế, giáo dục; thực hiện đấu thầu trực tuyến nhằm lựa chọn nhà cung cấp công khai, minh bạch, đánh giá hiệu quả kinh phí đầu tư”.
Trả lời:
1. Về việc có kế hoạch áp dụng KH&CN vào công tác quản lý lĩnh vực y tế, giáo dục:
Trong thời gian qua, Bộ Y tế và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng, triển khai kế hoạch áp dụng KH&CN vào công tác quản lý trong lĩnh vực y tế, giáo dục và đào tạo và đạt được một số kết quả như sau:
Kết quả áp dụng KH&CN trong công tác quản lý lĩnh vực y tế:
Đã ứng dụng thành công một số công nghệ thông tin phục vụ công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe cho người dân[1]. Các nhà khoa học ngành Y tế đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu khoa học có giá trị, góp phần vào công tác phòng, chống dịch bệnh, nâng cao sức khoẻ nhân dân và tiếp cận trình độ khoa học công nghệ của thế giới. Cụ thể:
- Trong lĩnh vực y tế dự phòng, y tế cộng đồng - dân số: (i) Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất vắc-xin phòng bệnh ở người, đảm bảo sản xuất các loại vắc-xin phục vụ chương trình tiêm chủng mở rộng; làm chủ được các công nghệ và kỹ thuật tiên tiến trong dự phòng các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, các bệnh mới phát sinh; (ii) Nghiên cứu các giải pháp KH&CN y, dược với các giải pháp khác để phát triển và duy trì dân số với quy mô và cơ cấu hợp lý, nâng cao chất lượng dân số nhất là tầm vóc, thể lực của con người Việt Nam.
- Trong lĩnh vực chẩn đoán, điều trị bệnh: Nghiên cứu ứng dụng, phát triển công nghệ cao trong lĩnh vực y tế, tiếp cận trình độ tiên tiến của các nước trong khu vực và trên thế giới. Làm chủ được các kỹ thuật tiên tiến trong chẩn đoán và điều trị bệnh, tật ở người như ghép tạng, can thiệp tim mạch, trị liệu tế bào, mổ nội soi, kỹ thuật sinh học phân tử, y học hạt nhân,...
- Trong lĩnh vực nghiên cứu sản xuất thuốc và trang thiết bị y tế: Nghiên cứu sản xuất nguyên liệu dược chất phục vụ công nghiệp bào chế thuốc, tăng dần tỷ lệ nguyên liệu dược chất trong nước, phát huy ưu thế, tiềm năng về dược liệu và thuốc y học cổ truyền. Quy hoạch một số vùng chuyên canh để sản xuất dược liệu. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng công nghệ cao trong nghiên cứu và sản xuất thuốc từ dược liệu trong nước và thuốc y học cổ truyền; bước đầu làm chủ công nghệ chế tạo trang thiết bị y tế công nghệ cao.
- Trong lĩnh vực xây dựng tiêu chuẩn - quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, lĩnh vực nghiên cứu chính sách y tế như: Xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia các lĩnh vực dược, dược liệu, vắc xin sinh phẩm y tế, an toàn thực phẩm và môi trường y tế.
Bên cạnh đó, để tăng cường áp dụng KH&CN trong y tế, hiện nay, Bộ Y tế đang tập trung đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ trong bệnh viện; xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản hướng dẫn, các tài liệu chuyên môn về y tế điện tử nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý và thúc đẩy ứng dụng công nghệ ngành Y tế; đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở dữ liệu danh mục dùng chung gắn liền với mã định danh, làm nền tảng cho việc trao đổi thông tin, khả năng tích hợp giữa hệ thống trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh để bệnh viện chủ động hoàn thiện hệ thống thông tin bệnh viện; triển khai bệnh án điện tử kết nối liên thông với phần mềm hồ sơ sức khỏe điện tử...
Kết quả áp dụng KH&CN trong công tác quản lý lĩnh vực giáo dục và đào tạo:
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, KH&CN hiện đại trong công tác quản lý và triển khai các hoạt động giáo dục và đào tạo; huy động nguồn lực xã hội hóa, hỗ trợ cho giáo dục và đào tạo thực hiện chuyển đổi số. Đến nay, 100% các cơ sở giáo dục đại học đã kết nối internet tốc độ cao, 90% các trường sử dụng phần mềm quản lý, trong đó hầu hết là phần mềm quản lý theo mô hình trực tuyến. Triển khai xây dựng Chính phủ điện tử phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của ngành giáo dục[2]; hiện đại hóa cải cách hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục[3].
Bên cạnh đó, nhằm nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo, đổi mới hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, hoạt động đầu tư cho KH&CN trong các cơ sở giáo dục đại học,... nhiều chương trình/đề án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Trong thời gian qua, Bộ KH&CN đã phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các bộ, ngành triển khai một số chương trình/đề án như sau:
- Chương trình KH&CN cấp quốc gia giai đoạn 2016 - 2020 “Nghiên cứu phát triển khoa học giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam”, mã số KHGD/16-20[4]: Đã cung cấp luận cứ cho việc xây dựng, ban hành nhiều chính sách giáo dục, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, giúp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục và đào tạo.
- Đề án “Tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo, cán bộ nghiên cứu và đổi mới hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2017- 2025” [5], với các mục tiêu như tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học, bảo đảm các cơ sở giáo dục đạt mức tăng bình quân số lượng các công bố quốc tế 10%/năm, số lượng sáng chế và giải pháp hữu ích được bảo hộ tăng trung bình 8-10%/năm; thúc đẩy hoạt động ứng dụng, chuyển giao, thương mại hóa kết quả nghiên cứu vào sản xuất, phấn đấu đến năm 2025 các cơ sở giáo dục được ưu tiên đầu tư có nguồn thu từ các hoạt động KH&CN, dịch vụ KH&CN đạt 10% so với tổng nguồn thu,...
- Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo”[6] với nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu như: triển khai hệ thống thông tin quản lý toàn ngành giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu kết nối, liên thông tích hợp, chia sẻ thông tin đối với các hệ thống thông tin từ trung ương đến địa phương; triển khai hệ thống quản lý hành chính điện tử và liên thông toàn ngành; hệ thống họp, hội thảo, tập huấn chuyên môn qua mạng; bổ sung, cập nhật các dịch vụ công trực tuyến tối thiểu mức độ 3, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin tuyển sinh đầu cấp học; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin đổi mới nội dung, phương pháp dạy - học, kiểm tra đánh giá và nghiên cứu khoa học,...
Một số nhiệm vụ triển khai trong thời gian tới
Trong thời gian tới, nhằm áp dụng hiệu quả KH&CN vào công tác quản lý ngành y tế, giáo dục và đào tạo/thực hiện Quyết định số 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2022 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển KH,CN&ĐMST đến năm 2030, Bộ KH&CN sẽ phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, định hướng ứng dụng thành tựu KH&CN vào công tác quản lý y tế, giáo dục và đào tạo; đặc biệt là các hoạt động nghiên cứu thuộc các Chương trình KH&CN cấp quốc gia giai đoạn đến năm 2030 được cấp có thẩm quyền phê duyệt, cụ thể:
- Chương trình “Nghiên cứu sản xuất vắc xin sử dụng cho người đến năm 2030”[7] với mục tiêu: (i) Nghiên cứu làm chủ công nghệ sản xuất vắc xin sử dụng cho người; nâng cao trình độ, năng lực của các tổ chức, doanh nghiệp nghiên cứu, sản xuất vắc xin trong nước, sẵn sàng đối phó với dịch bệnh mới phát sinh; (ii) Phấn đấu 100% vắc xin trong nước đạt tiêu chuẩn tương đương với tiêu chuẩn quốc tế, bảo đảm cho Chương trình tiêm chủng mở rộng và một số vắc xin khác; từng bước đưa vắc xin Việt Nam tham gia thị trường quốc tế;...
- Chương trình “Nghiên cứu ứng dụng, phát triển công nghệ tiên tiến trong y tế và phát triển sản phẩm chăm, sóc sức khỏe”, Mã số KC.10/21-30[8] với mục tiêu: (i) ứng dụng và phát triển được các công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực y tế, tạo ra các sản phẩm có hàm lượng KH&CN cao, một số lĩnh vực đạt trình độ các nước tiên tiến trên thế giới; (ii) làm chủ được công nghệ tiên tiến, phát triển một số sản phẩm hỗ trợ chuẩn đoán, điều trị và chăm sóc sức khỏe có chất lượng tương đương sản phẩm nhập khẩu cùng loại của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.
- Chương trình “Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sinh học”, Mã số KC.12/21-30[9], với mục tiêu nghiên cứu tích hợp công nghệ sinh học, tin sinh học, nano sinh học,../trong ứng dụng sản xuất vắc -xin,...
- Chương trình “Nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ tiên tiến phục vụ công nghiệp hóa dược và dược phẩm”, mã số KC.11/21-30[10], với mục tiêu ứng dụng và phát triển được các kỹ thuật, công nghệ tiên tiến trong công nghiệp hóa dược và dược phẩm để nâng cao khả năng tự chủ sản xuất thuốc và nguyên liệu làm thuốc tại Việt Nam,...
- Tiếp tục khảo sát đánh giá, lựa chọn nhóm nghiên cứu và hướng nghiên cứu công nghệ để tiến hành đặt hàng các nhiệm vụ cấp quốc gia, cấp bộ nhằm hướng tới thực hiện các mục tiêu tại Đề án “Tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo, cán bộ nghiên cứu và đổi mới hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2017-2025”.
2. Về “thực hiện đấu thầu trực tuyến nhằm lựa chọn nhà cung cấp công khai, minh bạch, đánh giá hiệu quả kinh phí đầu tư”.
Việc đấu thầu lựa chọn nhà thầu cung cấp trong các lĩnh vực (trong đó có lĩnh vực giáo dục, y tế) được thực hiện theo quy định tại Luật Đấu thầu và Thông tư số 08/2022/TT-BKHĐT ngày 31/5/2022 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định chi tiết việc cung cấp, đăng tải thông tin về đấu thầu và lựa chọn nhà thầu trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia. Trình tự, thủ tục quy định về đấu thầu, lựa chọn nhà thầu qua mạng và lộ trình áp dụng đã được quy định cụ thể, chi tiết tại Thông tư số 08/2022/TT-BKHĐT bảo đảm tính cạnh tranh, công khai, minh bạch và hiệu quả kinh tế trong đấu thầu.