TỔNG
CỤC THUẾ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
4793/TCT/NV6
|
Hà
Nội ngày 18 tháng 12 năm 2002
|
CÔNG VĂN
CỦA BỘ TÀI CHÍNH - TỔNG CỤC THUẾ SỐ 4793TCT/NV6 NGÀY 18
THÁNG 12 NĂM 2002 VỀ VIỆC QUẢN LÝ THUẾ NQD NĂM 2003
Kính
gửi: Cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Năm 2002, thực hiện chỉ đạo của
Tổng cục thuế, các địa phương đã tích cực triển khai các biện pháp nghiệp vụ,
khai thác mọi nguồn thu, phấn đấu thực hiện để có kết quả cao nhất nhiệm vụ được
giao: theo số liệu tổng hợp, ước thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh Công
thương nghiệp và dịch vụ NQD cả nước đạt xấp xỉ 103% so dự toán pháp lệnh, đạt
100% chỉ tiêu phấn đấu và tăng gần 14% so với số thực thu năm 2001. Có khoảng
53 địa phương hoàn thành dự toán pháp lệnh, 40 địa phương hoàn thành chỉ tiêu
phấn đấu, nhiều địa phương có số thu năm 2002 tăng cao so với năm 2001...
Tuy nhiên, với kết quả thu như
trên vẫn chưa phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực kinh tế NQD,
tiềm năng vẫn còn và có thể khai thác thu để đạt ở mức cao hơn. Tình trạng thất
thu thuế tuy có giảm so với cùng kỳ nhưng vẫn còn tình trạng quản lý không hết
hộ kinh doanh, doanh thu tính thuế không sát thực tế, dây dưa nợ đọng thuế còn
nhiều...
Để khắc phục những tồn tại trong
quản lý thu thuế ở lĩnh vực NQD của năm 2002 nhằm thực hiện tốt các biện pháp
nghiệp vụ, quy trình nghiệp vụ đẩy mạnh chống thất thu, phân loại đối tượng
kinh doanh, quản lý tập trung vào đối tượng là doanh nghiệp, hộ kê khai để khai
thác nguồn thu sát thực tế đó là yếu tố quy định đến việc hoàn thành và hoàn
thành vượt mức dự toán năm 2003.
Tổng cục thuế yêu cầu các Cục
thuế tập trung chỉ đạo các Chi cục thuế, các phòng quản lý thu NQD thực hiện
nghiêm túc và đồng bộ một số giải pháp sau:
1. Về thuế
môn bài:
1.1. Rà soát đưa hết các đối tượng
có sản xuất kinh doanh vào diện quản lý thu thuế môn bài
Năm 2002, thực hiện Chỉ thị số
01TCT/CT/NV6 ngày 23/4/2002 của Tổng cục trưởng Tổng cục thuế về tăng cường quản
lý thu thuế đối với hoạt động sản xuất kinh doanh Công thương nghiệp và dịch vụ
NQD, các địa phương đã thực hiện rà soát, nắm lại đối tượng có sản xuất kinh
doanh đưa vào diện quản lý thu thuế, số hộ quản lý thu có tăng lên so với năm
2001, nhưng vẫn còn thất thu, nhất là ở lĩnh vực vận tải tư nhân, hộ cho thuê
nhà, xây dựng tư nhân, hộ kinh doanh sáng tối, hộ sản xuất ở các làng nghề, hộ
kinh doanh thời vụ, vãng lai, các hộ kinh doanh núp bóng các HTX, các doanh
nghiệp... Do đó, từng Chi cục thuế, từng đội thuế căn cứ vào số hộ kinh doanh
qua điều tra thực tế và điều tra thống kê, đối chiếu với số hộ đã quản lý phải
tiếp tục rà soát, nắm lại tất cả hộ kinh doanh, trong đó chú ý hộ kinh doanh vận
tải, xây dựng, kinh doanh vãng lai, cho thuê nhà, kinh doanh sáng tối... chưa
quản lý để đưa vào diện quản lý.
Căn cứ vào số liệu điều tra thống
kê và trên cơ sở rà soát đối tượng kinh doanh, Cục thuế giao chỉ tiêu thu thuế
môn bài năm 2003 cho từng Chi cục, Chi cục thuế giao chỉ tiêu cụ thể cho từng đội
thuế để Chi cục và đội thuế tổ chức thực hiện.
Khi giao chỉ tiêu thuế môn bài
năm 2003 phải ấn định để dự kiến giao số hộ ghi thu môn bài, tỷ lệ hộ kinh
doanh theo từng loại bậc môn bài và số thuế môn bài phải thu cả năm, đảm bảo chỉ
tiêu thu thuế môn bài năm 2003 ở từng đơn vị quản lý thu tối thiểu phải vượt dự
toán và tăng cao hơn so với thực thu năm 2002 ở từng khu vực đối tượng theo mức
môn bài mới, không để thất thu về thuế môn bài.
1.2. Ngay trong tháng 12 năm
2002 các phòng quản lý doanh nghiệp NQD, các tổ đội thuế phải tiến hành lập bộ
thuế môn bài năm 2003, phối hợp với UBND, Hội đồng tư vấn thuê tổ chức điều tra
nắm đối tượng, xác định thu nhận thực tế của từng đối tượng sản xuất kinh doanh
làm căn cứ dự kiến xếp bậc môn bài. Kết quả rà soát đối tượng và điều tra thu
thập, xếp bậc môn bài phải bao quát hết đối tượng kinh doanh đảm bảo đạt chỉ
tiêu được giao. Tổ chức duyệt bộ, phát hành thông báo tới đối tượng nộp thuế
xong trước ngày 31/12/2002 để kịp thu thuế môn bài ngay từ đầu năm, phấn đấu
trước tết nguyên đán thu thuế môn bài đạt tối thiểu 80% so với dự toán cả năm,
hết quý I hoàn thành xong chỉ tiêu thu thuế môn bài cả năm.
2. Về quản
lý thuế GTGT và thuế TNDN:
2.1. Đối với các doanh nghiệp:
Những năm gần đây thực hiện Luật doanh nghiệp thì số lượng các doanh nghiệp NQD
tăng nhanh về số lượng tổng số vốn đăng ký gấp nhiều lần so với trước đây có tốc
độ phát triển cao tạo tỷ trọng thu ngày càng lớn trong số thu NQD. Tuy nhiên,
đây cũng là lĩnh vực thất thu rất lớn, tình trạng gian lận thuế diễn ra khá phổ
biến. Năm 2003 yêu cầu các địa phương tập trung quản lý các doanh nghiệp nhằm tạo
chuyển biến căn bản trong lĩnh vực này. Tổng cục thuế sẽ tổ chức hội thảo
chuyên đề bàn về biện pháp quản lý Doanh nghiệp NQD để các địa phương trao đổi,
học hỏi lẫn nhau và cùng tìm giải pháp sao cho quản lý chống thất thu tốt nhất.
Trước mắt tập trung những việc sau đây:
- Yêu cầu mọi doanh nghiệp đều
phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kế toán, chế độ lập hoá đơn, chứng từ theo
quy định. Xử lý nghiêm khắc những doanh nghiệp vi phạm nhằm mục đích trốn lậu
thuế.
Trên cơ sở đã quản lý thu thuế
nhiều năm, Cục thuế, Chi cục thuế phải phân loại doanh nghiệp, xác định cụ thể
nhưng doanh nghiệp chưa thực hiện đúng chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ để có
biện pháp bước đầu sẽ tư vấn hỗ trợ, tổ chức tập huấn để cho doanh nghiệp nắm
chắc chính sách, chế độ kế toán, sau đó xiết chặt trong quản lý, xử lý nghiêm
túc các trường hợp vi phạm.
- Quản lý chặt chẽ doanh thu,
chi phí sản xuất kinh doanh:
+ Về quản lý doanh thu: để quản
lý được doanh thu phải quản lý chặt chẽ hàng hoá nguyên vật liệu mua vào dùng
cho sản xuất kinh doanh. Căn cứ vào tài liệu kê khai doanh thu bán ra, giá trị
hàng hoá vật tư mua vào đối chiếu với tồn kho và định mức tiêu hao để xác định chính
xác số lượng sản phẩm tiêu thụ. Đối với những doanh nghiệp có các cửa hàng bán
lẻ hàng hoá nếu qua kiểm tra kê khai thấy doanh thu bán lẻ kê khai thấp thì phải
điều tra để ấn định thêm doanh thu tiêu thụ.
+ Về quản lý chi phí: nguyên tắc
là chỉ những chi phí có hoá đơn chứng từ hợp lệ, có hạch toán kế toán và có thực
tế liên quan đến sản xuất kinh doanh mới được chấp nhận tính vào chi phí khi
xác định thu thập chịu thuế, do đó:
Đối với chi phí khấu hao tài sản
cố định chỉ chấp nhận cho tính vào chi phí khấu hao những tài sản cố định có
hoá đơn chứng từ hợp lệ và thực tế dùng vào sản xuất, những tài sản cố định
không có hoá đơn chứng từ hợp lệ, không dùng vào sản xuất kinh doanh thì không
được chấp thuận. Đối với những tài sản vừa sử dụng vào SXKD vừa sử dụng vào các
mục đích khác phải phân bổ chỉ tính phần phục vụ sản xuất kinh doanh vào chi
phí.
+ Đối với chi phí về mua hàng
hoá vật tư nguyên vật liệu, chi phí tiền lương: Phải đối chiếu chi phí thực tế
với các định mức tiêu hao vật tư và hợp đồng lao động. Trường hợp định mức vật
tư do doanh nghiệp hoặc chi phí tiền lương cao hơn định mức do cơ quan có thẩm
quyền ban hành phải kiểm tra xác định nguyên nhân cụ thể, không chấp nhận những
chi phí không hợp lý, không liên quan đến sản xuất kinh doanh và doanh thu tiêu
thụ trong kỳ.
+ Đối với những chi phí khác phải
có hoá đơn chứng từ hợp lệ, phải phục vụ cho sản xuất kinh doanh mới được chấp
nhận.
- Qua kiểm tra kê khai thuế GTGT
hàng tháng, trường hợp doanh nghiệp nhiều tháng liên tục đều kê khai GTGT âm, phải
xác định rõ nguyên nhân có biện pháp tổ chức kiểm tra tại các doanh nghiệp để
xác định so sánh với số liệu kê khai và xử lý kịp thời các sai phạm.
- Thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện
nghiêm túc chế độ kê khai nộp thuế, trước mắt trong tháng 1 và tháng 2 năm 2003
yêu cầu doanh nghiệp kê khai và nộp báo cáo quyết toán thuế năm 2002, qua kiểm
tra hồ sơ báo cáo quyết toán thuế của các doanh nghiệp nếu phát hiện có phát
sinh thu thêm phải phát hành thông báo yêu cầu doanh nghiệp nộp ngay vào ngân
sách. Đôn đốc các doanh nghiệp nộp tờ khai thuế TNDN năm 2003 theo đúng thời
gian quy định, căn cứ vào nội dung kê khai, đối chiếu với kết quả sản xuất kinh
doanh và thực hiện nghĩa vụ thuế năm 2002 nếu doanh nghiệp kê khai doanh thu,
thu nhập chịu thuế thấp hơn năm 2002 phải yêu cầu doanh nghiệp xuất trình và kê
khai lại cho phù hợp.
2.2. Đối với hộ kinh doanh cá thể
nộp thuế theo kê khai:
Về nguyên tắc, biện pháp quản lý
thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể, thực hiện chế độ kế toán và nộp thuế
theo kê khai thực hiện như đối với doanh nghiệp. Tổng cục thuế lưu ý thêm một số
điểm sau:
- Theo quy định, hộ kinh doanh
cá thể thực hiện đúng chế độ kế toán, chế độ lập hoá đơn chứng từ nếu có đơn
xin nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ được cơ quan thuế kiểm tra, xác nhận
sẽ được chấp nhận cho nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ.
Cục thuế phải chỉ đạo các chi cục
thuế quản lý chặt chẽ các đối tượng này từ khi xét duyệt bộ đến quá trình kê
khai, nộp thuế, nếu phát hiện có vi phạm thì phải xử lý và ra quyết định đình chỉ
ngay.
- Mỗi khi hộ kinh doanh nộp thuế
GTGT theo phương pháp khấu trừ phát sinh số thuế GTGT âm, hay kê khai doanh thu
kinh doanh giảm nhiều so với tháng trước hoặc so với các hộ kinh doanh cùng
ngành nghề, cùng quy mô kinh doanh phải kiểm tra ngay để xác định nguyên nhân,
nếu kê khai không đúng phải xử phạt vi phạm hành chính và ấn định ngay số thuế
phải nộp.
- Thường xuyên kiểm tra việc hạch
toán kế toán, lập hoá đơn chứng từ của các hộ kinh doanh, phát hiện và xử lý
ngay những hộ vi phạm. Đối với những hộ vi phạm dẫn đến kết quả kê khai doanh
thu, thuế thấp hơn so với các hộ kinh doanh cùng ngành nghề, cùng quy mô kinh
doanh ngoài xử phạt vi phạm phải ấn định thuế phải nộp tối thiểu bằng hộ kinh
doanh cùng ngành nghề, cùng quy mô để thúc đẩy hộ kinh doanh chấp hành chế độ kế
toán, chế độ hoá đơn chứng từ tốt hơn.
- Ngày 18/10/2002 Bộ trưởng Bộ
Tài chính đã có Quyết định số 131/2002/QĐ-BTC bổ sung Quyết định số
169/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2000 về chế độ kế toán hộ kinh doanh. Yêu cầu Cục
thuế tổ chức phổ biến cho hộ kinh doanh biết để thực hiện. Đồng thời có kế hoạch
để cung cấp sổ kế toán phục vụ kịp thời cho hộ kinh doanh, đảm bảo từ 1/1/2003
thực hiện thống nhất trong cả nước.
- Năm 2003, Tổng cục thuế không
giao thêm chỉ tiêu về hộ thực hiện sổ sách kế toán mà trên cơ sở số hộ hiện
đang thực hiện sổ sách kế toán và những hộ phát sinh mới yêu cầu Cục thuế chỉ đạo
các Chi cục thuế duy trì và nâng cao chất lượng ghi chép sổ sách kế toán, lập
hoá đơn chứng từ của các hộ. Hàng tháng đội thuế phải báo cáo đánh giá chất lượng
hộ kê khai thông qua công tác kiểm tra thường xuyên về ghi chép sổ sách kế
toán, lập báo cáo hoá đơn, về thực hiện kê khai thuế có phản ánh trung thực
không, kết quả số thuế tăng hay giảm để có biện pháp quản lý tốt hơn.
2.3. Đối với hộ kinh doanh nộp
thuế khoán ổn định:
- Căn cứ vào kết quả phân loại
môn bài năm 2003, từng Chi cục thuế, đội thuế phải xác định những hộ thuộc diện
ổn định thuế 6 tháng, cả năm để ngay từ tháng 12 năm 2002 phải điều tra, xác định
lại doanh thu, mức thu thuế của từng hộ, tổ chức niêm yết công khai lấy ý kiến
UBND, Hội đồng tư vấn thuế xã phường và những người kinh doanh xã phường và những
người kinh doanh. Sau đó tổ chức lập bộ, duyệt bộ và phát hành thông báo cho
người kinh doanh biết. Yêu cầu doanh thu, mức thuế mới xác định phải đảm bảo đạt
và vượt mức tăng chung về thuế NQD năm 2003 so với năm 2002.
Để thúc đẩy các Chi cục thuế, đội
thuế thực hiện nghiêm túc việc điều tra, xác định lại doanh thu để khi Cục thuế
giao chỉ tiêu tăng về quản lý hộ, chỉ tiêu về tăng doanh thu, mức thuế cho từng
Chi cục. Tổ chức duyệt bộ chặt chẽ đúng quy trình đảm bảo mức tăng theo chỉ
tiêu đã giao và công bằng với các địa phương khác.
- Chỉ đạo các Chi cục thuế, đội
thuế tập trung thu dứt điểm số thuế GTGT, thuế TNDN phát sinh trong tháng 1 nộp
vào ngân sách đề phòng sau tết nguyên đán hộ kinh doanh sẽ nghỉ nhiều, nợ đọng
kéo dài. Đồng thời sau tết phải tổ chức kiểm tra chặt chẽ các hộ có đơn xin nghỉ
kinh doanh, chỉ xét miễn giảm thuế cho các hộ thực tế có nghỉ kinh doanh. Các hộ
có đơn xin nghỉ nhưng thực tế vẫn kinh doanh được xử lý kịp thời theo quy định.
- Hộ kinh doanh cá thể nộp thuế
theo phương pháp khoán ổn định là những hộ kinh doanh nhỏ chủ yếu bán lẻ lặt vặt,
giá trị thấp nên người mua không đòi hỏi về hoá đơn, do đó các Chi cục thuế hạn
chế cấp hoá đơn cho những đối tượng này. Trường hợp hộ kinh doanh có yêu cầu
mua hoá đơn nên giải thích để họ chuyển sang thực hiện sổ sách kế toán và nộp
thuế kê khai hoặc khi cần đến cơ quan thuế để được cấp hoá đơn lẻ theo thủ tục
quy định. Số thuế nộp theo hoá đơn lẻ không được khấu trừ vào số thuế đã ổn định.
2.4. Trước tết nguyên đán tình
hình thị trường sẽ diễn biến hết sức phức tạp, các hộ kinh doanh gia tăng, Cục
thuế phải chỉ đạo Chi cục thuế, các đội thuế bám sát thực tế, phát hiện và đưa
ngay những hộ kinh doanh tranh thủ dịp tết vào diện quản lý hộ thời vụ để thu
thuế môn bài, thuế tháng, gắn công tác quản lý thuế với công tác chống buôn lậu,
gian lận thương mại, kinh doanh hàng giả, phát hiện và xử lý nghiêm các trường
hợp vi phạm.
3. Chấn chỉnh lại
công tác quản lý hoá đơn chứng từ: Những năm qua, do quản lý sử dụng hoá đơn chứng
từ không chặt chẽ, các cơ sở kinh doanh đã lợi dụng mua bán hoá đơn để khai thuế
khống, hợp thức hoá chi phí, để rút tiền ngân sách... Yêu cầu Cục thuế tập
trung chỉ đạo thường xuyên và tăng cường kiểm tra để đưa công tác này vào nền nếp.
Cần tập trung thực hiện ngay một số việc sau:
- Thực hiện nghiêm túc các quy định
về bán hóa đơn, quản lý hóa đơn. Phối hợp chặt chẽ giữa bộ phận bán hoá đơn và bộ
phận quản lý đối tượng sử dụng hoá đơn nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các trường
hợp vi phạm.
- Tăng cường kiểm tra, xác minh
hoá đơn và đưa chỉ tiêu này vào thi đua hàng tháng, quý năm. Cục thuế đưa vào kế
hoạch công tác năm nội dung này và giao nhiệm vụ đối với các phòng quản lý, các
Chi cục thuế, đây là nhiệm vụ xuyên suốt nhằm thực hiện có hiệu quả Luật thuế
GTGT. Đặc biệt đối với các hộ kế toán sử dụng hoá đơn phải được lập phiếu xác
minh 100% số hoá đơn đối tượng sử dụng hàng tháng. Hướng là tất cả những hoá
đơn bán hàng bên bán và bên mua đều ở cùng địa phương đều phải xác minh đối chiếu
ngay trong tháng. Đối với những hoá đơn liên quan đến địa phương khác thì lập
phiếu đề nghị Cục thuế bạn xác minh. Theo chỉ đạo của Tổng cục thì việc xác
minh đối chiếu hoá đơn là nhiệm vụ của toàn ngành, Cục thuế địa phương có trách
nhiệm thực hiện tốt nhất với thời gian ngắn nhất. Vì thế Cục thuế nhận được phiếu
chuyển xác minh hoá đơn phải tổ chức xác minh và trả lời kịp thời. Nếu qua xác
minh có vi phạm phải kết hợp xác định rõ đối tượng vi phạm để xử lý đúng người,
đúng hành vi...
- Đối với những doanh nghiệp tạm
nghỉ kinh doanh hoặc bỏ kinh doanh phải tổ chức kiểm tra tình hình sử dụng hoá
đơn chứng từ để thu hồi những hoá đơn chưa sử dụng.
Trường hợp doanh nghiệp bỏ trốn,
nếu kiểm tra thực hiện sử dụng hoá đơn thấy còn tồn hoá đơn chưa sử dụng nhưng
không khai báo và nộp cơ quan thuế phải thông báo ngay cho các Cục thuế khác biết,
đồng thời thông báo công khai để các doanh nghiệp và nhân dân biết tránh bị lợi
dụng.
- Mọi trường hợp vi phạm về khai
báo sử dụng hoá đơn, quản lý và sử dụng hoá đơn cơ quan thuế phải xử lý hành vi
vi phạm và tạm đình chỉ việc sử dụng hoá đơn của cơ sở kinh doanh. Sau khi
doanh nghiệp đã thực hiện quyết định xử lý và có các biện pháp chấn chỉnh mới
tiếp tục bán hoá đơn cho doanh nghiệp.
4. Tiếp tục
thực hiện cải cách quản lý hành chính thuế:
- Về phân cấp quản lý doanh nghiệp
ngoài quốc doanh: tiếp tục xem xét phân cấp các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
cho các Chi cục thuế quản lý, đối với doanh nghiệp đã phân cấp nhưng nay có quy
mô phát triển, kinh doanh đặt chi nhánh ở nhiều địa phương khác nhau có liên
quan đến hoàn thuế thì tập trung quản lý tại Cục thuế.
Hướng phân cấp doanh nghiệp về
Chi cục thuế quản lý là: các doanh nghiệp mới thành lập từ hộ kinh doanh cá thể,
các doanh nghiệp chỉ kinh doanh một vài ngành nghề trong cùng một địa phương (địa
phương cấp huyện), các HTX, các doanh nghiệp không liên quan đến XNK, các doanh
nghiệp có quy mô vốn thấp, các doanh nghiệp kinh doanh thương mại dịch vụ trong
nội địa được phân cấp hết cho Chi cục quản lý. Cục thuế chỉ tập trung quản lý
những doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu, hoặc kinh doanh nhiều ngành nghề,
có nhiều chi nhánh ở các địa phương khác, thường xuyên phát sinh hoàn thuế. Đối
với các doanh nghiệp kinh doanh nhiều ngành nghề trong đó có các điểm kinh
doanh ăn uống, khách sạn, vũ trường, tắm hơi mát xa... không cùng địa điểm với
Trụ sở chính thì phân cấp cho chi cục thuế nơi có điểm kinh doanh ăn uống,
khách sạn, vũ trường, tắm hơi, mát xa... quản lý thu thuế GTGT và thuế TNDN đối
với các điểm kinh doanh đó còn phòng NQD Cục thuế chỉ quản lý thu thuế đối với
doanh nghiệp nơi có trụ sở chính.
- Bố trí phân công lại cán bộ quản
lý, chấm dứt tình trạng phân chia theo tổ nhóm phụ trách và chịu trách nhiệm
toàn bộ theo địa bàn. Tăng cường cán bộ làm công tác kiểm tra kê khai, kiểm tra
quyết toán thuế, kiểm tra hoàn thuế, xác minh đối chiếu hoá đơn chứng từ. Ở những
phòng quản lý doanh nghiệp NQD phải dành hẳn khoảng 40% cán bộ làm nhiệm vụ
chuyên kiểm tra quyết toán thuế, kiểm tra hoàn thuế, xác minh đối chiếu hoá đơn
và thực hiện các việc kiểm tra khác theo nhiệm vụ của phòng và Cục thuế.
Các Chi cục thuế cũng phải sắp xếp
lại đội ngũ cán bộ, tăng cường cán bộ cho bộ phận thanh tra của Chi cục để bộ
phận này đủ sức đảm nhiệm toàn bộ việc kiểm tra quyết toán và kiểm tra hoàn thuế
tại Chi cục.
- Mở rộng công khai dân chủ
trong quản lý thuế: mỗi bộ phận quản lý thuế theo chức năng được phân công đều
phải niêm yết công khai các quy định về thủ tục, hồ sơ, thời hạn giải quyết
công việc. Mỗi khi đối tượng nộp thuế có yêu cầu cung cấp dịch vụ cơ quan thuế
đều phải trả lời đối tượng nộp thuế rõ, trường hợp từ chối phải nêu rõ nguyên
nhân và hướng giải quyết tiếp theo để ĐTNT yên tâm.
- Mở rộng thực hiện uỷ nhiệm cho
UBND phường xã thu một số loại thuế và phí. Đối với một số địa phương năm 2002
đã triển khai thí điểm cần đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm để triển khai mở
rộng trên toàn tỉnh, thành phố. Những địa phương chưa triển khai Cục thuế phối
hợp với Sở tài chính nghiên cứu xây dựng đề án trình UBND tỉnh, thành phố để
trình Bộ Tài chính quyết định cho triển khai thí điểm.
5. Nâng cao
ý thức trách nhiệm của cơ quan thuế và cán bộ thuế quản lý các cơ sở sản xuất
kinh doanh công thương nghiệp NQD:
- Năm 2003 tiếp tục thực hiện Chỉ
thị số 01TCT/CT/NV6 ngày 23/04/2002 của Tổng cục trưởng Tổng cục thuế về việc
tăng cường quản lý thu đối với cơ sở sản xuất kinh doanh Công thương nghiệp
NQD. Yêu cầu Cục thuế các tỉnh thành phố căn cứ tiêu chuẩn quy định trong Chỉ
thị của Tổng cục trưởng Tổng cục thuế để cụ thể hoá thành tiêu chuẩn đối với từng
loại công việc: quản lý doanh nghiệp, quản lý hộ cá thể nộp thuế theo kê khai,
quản lý hộ cá thể nộp thuế khoán ổn định, quản lý ấn chỉ, thanh tra kiểm tra...
làm cơ sở để đánh giá bình xét cán bộ quý, năm.
Tiêu chuẩn bắt buộc đối với cán
bộ quản lý doanh nghiệp cán bộ quản lý hộ kinh doanh cá thể phải quản lý được
100% số hồ sơ có địa điểm kinh doanh cố định. Mọi trường hợp có sự thay đổi
(nghỉ kinh doanh, di chuyển địa điểm...) đều phải phản ánh và báo cáo kịp thời.
- Xây dựng phòng, tổ, đội quản
lý thuế giỏi, cán bộ thuế gương mẫu với ý thức trách nhiệm cao hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ đó là trách nhiệm của đồng chí Cục trưởng và ban lãnh đạo Cục thuế.
Cục thuế cần phải tăng cường cho công tác thanh tra, kiểm tra trong quản lý thuế
đi đôi với kiểm tra nội bộ ngành để phát hiện và ngăn chặn kịp thời các biểu hiện
lợi dụng quyền hạn gây khó khăn cho cơ sở sản xuất kinh doanh; xử lý nghiêm khắc
những cán bộ thuế thoái hoá biến chất đồng thời khen thưởng biểu dương kịp thời
những đơn vị, cá nhân có thành tích trong công tác nhằm xây dựng đơn vị, ngành
vững mạnh.