Công văn hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
Số hiệu | 39/KHXX |
Ngày ban hành | 06/07/1996 |
Ngày có hiệu lực | 06/07/1996 |
Loại văn bản | Công văn |
Cơ quan ban hành | Tòa án nhân dân tối cao |
Người ký | Trịnh Hồng Dương |
Lĩnh vực | Lĩnh vực khác |
TOÀ
ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 39/KHXX |
Hà Nội, ngày 06 tháng 7 năm 1996 |
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 39/KHXXNGÀY 6 THÁNG 7 NĂM 1996 HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐQUY ĐỊNH CỦA PHÁP LỆNH THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-5-1996 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996. Để thi hành đúng và thống nhất các quy dịnh của Pháp lệnh, Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điểm như sau:
a) Theo quy định tại khoản1 Điều 4 của Pháp lệnh, thì quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, cơ quan Nhà nước địa phương, các Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một số vấn đề cụ thể (cần lưu ý là các quyết đinh của Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân trong khi thực hiện chức năng tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng khi có khiếu nại sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng. Chỉ có các quyết định hành chính như quyết định về buộc thôi việc cán bộ, nhân viên Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân hoặc quyết định sử phạt vi phạm hành chính do vi phạm trật tự phiên toà, khi có khiếu kiện mới được xem là vụ án hành chính và được giải quyết theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính).
Để được coi là một quyết định hành chính, khi có khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, thì trước hết quyết định đó phải là của một trong các cơ quan này hoặc của Thủ trưởng, cán bộ, viên chức của một trong các cơ quan này và phải được làm bằng văn bản, trong đó ghi rõ đối tượng cụ thể được áp dụng quyết định hành chính và nội dung cụ thể của quyết định hành chính. Cần lưu ý rằng các quyết định hành chính của các cơ quan tổ chức: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ, Liên Đoàn lao động... (tức là các cơ quan, tổ chức không được liệt kê tại khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh) cũng như các quyết định hành chính, hành vi hành chính của các thành viên của các cơ quan, tổ chức này nếu có khiếu kiện thì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
b) Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của Pháp lệnh, thì hành vi hành chính là hành vi thực hiện hoặc không thực hiện công vụ của cán bộ, viên chức Nhà nước. Để được coi là một hành vi hành chính, khi có khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, thì trước hết hành vi đó phải là của cán bộ, viên chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, cơ quan Nhà nước địa phuơng, các Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong khi thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật. Hành vi hành chính có thể là việc thực hiện hoặc có thể là việc không thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật và không được thể hiện bằng văn bản.
Ví dụ: Hành vi hành chính là việc thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật như một người theo quy định pháp luật được giao nhiệm vụ thi hành quyết định hành chính của người có thẩm quyền về việc cưỡng chế tháo dỡ công trình phụ của một gia đình do có sự lấn chiếm đất của công, nhưng khi thi hành công vụ người đó không những tháo dỡ công trình phụ mà còn có hành vi phá bỏ một phần của ngôi nhà.
Ví dụ: Hành vi hành chính là việc không thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật như một cơ quan hoặc một người theo quy định của luật pháp sau khi nhận đủ hồ sơ về việc xin cấp giấy phép xây dựng nhà ở, mặc dù hồ sơ đã đầy đủ các tài liệu cần thiết thế nhưng quá thời hạn do pháp luật quy định, cơ quan đó hoặc người đó vẫn không cấp giấy phép xây dựng nhà ở cho người xin phép.
c) Cần chú ý là không phải tất cả các quyết định hành chính của cơ quan quy định tại khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh và cũng không phải tất cả các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, viên chức của cơ quan đó, nếu có khiếu kiện đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, mà chỉ có các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc các lĩnh vực quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 11 của Pháp lệnh nếu có khiếu kiện mới thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Ngoài ra khoản 8 Điều 11 còn quy định cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án "khiếu kiện các quyết định hành chính, hành vi hành chính khác theo quy định của pháp luật". Điều này có nghĩa là hiện nay Toà án mới chỉ được giao thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 11 của Pháp lệnh còn các khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc các lĩnh vực khác, thì chỉ khi đựơc Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao mới thuộc thẩm quyền giải quyết cuả Toà án. (Toà án nhân dân tối cao sẽ có thông báo kịp thời đến các Toà án nhân dân về các khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án mới được giao thêm này).
2. Về khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính.
a) Điều 2 của Pháp lệnh quy định: "Trước khi khởi kiện để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức phải khiếu nại với cơ quan nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính mà họ cho là trái pháp luật; trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại, thì họ có quyền khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đó hay khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền". Do đó khi nhận được đơn kiện, khởi kiện vụ án hành chính, Toà án cần phải xem xét kèm theo đơn kiện đã có bản sao văn bản trả lời của cơ quan Nhà nước hoặc người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại đốí với quyết định hành chính hay hành vi hành chính mà người khởi kiện cho là trái pháp luật hay chưa? Nếu chưa có bản sao văn bản trả lời, thì Toà án trả lại đơn kiện cho người khởi kiện và giải thích cho họ biết quy định tại Điều 2 và khoản 3 Điều 31 của Pháp lệnh.
Trong trường hợp đã có bản sao văn bản trả lời của cơ quan Nhà nước hoặc người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại và nếu thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình (thẩm quyền theo lãnh thổ, thẩm quyền theo loại khiếu kiện hành chính), thì thông báo cho người khiếu kiện biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của Chính ohủ và tiến hành thụ lý vụ án theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 32 của Pháp lệnh.
b) Theo quy định tại Điều 5 và Điều 30 của Pháp lệnh, thì người khởi kiện phải làm đơn kiện trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản trả lời của cơ quan hoặc người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại. Đơn kiện phải có các nội dung chính quy định tại khoản 3 Điều 30 của Pháp lệnh. Trong trường hợp người khởi kiện chưa làm đơn theo đúng quy định này, thì Toà án cần giải thích cho họ biết và yêu cầu họ làm lại đơn kiện có các nội dung chính theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 30 của Pháp lệnh.
Toà án cần kiểm tra xem người khởi kiện, bên bị kiện cũng như người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã cung cấp đây đủ các văn bản, tài liệu quy định tại Điều 5 của Pháp lệnh hay chưa. Nếu chưa, thì yêu cầu họ có nghĩa vụ cung cấp cho Toà án.
c) Theo tinh thần quy định tại khoản 1 Điều 37 của Pháp lệnh thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, bên bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải gửi cho Toà án ý kiến của mình bằng văn bản về đơn kiện và các tài liệu khác có liên quan đến việc giải quyết các vụ án; hết thời hạn này mà không nhận được ý kiến bằng văn bản thì Toà án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Điều đó có nghĩa là, hết thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, bên bị kiện không cung cấp các tài liệu theo yêu cầu của Toà án, thì Toà án áp dụng các quy định của Pháp lệnh để tiếp tục giải quyết vụ án. Ví dụ như áp dụng quy định tại đoạn 4 Điều 5 của Pháp lệnh để xác minh, thu thập chứng cứ. Trong trường hợp cần thiết buộc bên bị kiện phải cung cấp các tài liệu thì có thể áp dụng khoản 2 Điều 33 và khoản 2 Điều 34 của Pháp lệnh ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc đương sự, tổ chức, cá nhân cung cấp các tài liệu cụ thể nào đó. Trong thời hạn sáu mươi ngày (đối với vụ án phức tạp thì trong thời hạn không quá chín mươi ngày), kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân công làm Chủ tọa phiên toà phải ra một trong các quyết định quy định tại khoản 2 Điều 37 của Pháp lệnh; cụ thể là: đưa vụ án ra xét xử; tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án; đình chỉ việc giải quyết vụ án.
d) Trong trường hợp, Toà án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án do "nguyên đơn rút đơn kiện" theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 41 của Pháp lệnh nếu sau đó họ khởi kiện lại, thì Toà án vẫn thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung, nếu kể từ ngày nhận được văn bản trả lời của người hoặc cơ quan Nhà nước đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính về việc giải quyết khiếu nại đến ngày khởi kiện lại chưa quá ba mươi ngày.
a) Điều 12 của Pháp lệnh quy định cụ thể thẩm quyền của Toà án các cấp, đồng thời cũng quy định cụ thể những truờng hợp mà Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện và những trường hợp mà Toà án nhân dân tối cao có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm các vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh. Do đó, cần lưu ý là:
- Đối với Toà án cấp dưới, khi thấy vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của mình theo thủ tục sơ thẩm, nhưng thuộc một trong các trường hợp mà Toà án cấp trên có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm (hoặc theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm) và xét thấy việc Toà án cấp trên giải quyết là cần thiết, thì chủ động yêu cầu Toà án cấp trên lấy lên để giải quyết.
- Đối với Toà án cấp trên khi thấy vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Toà án cấp dưới, nhưng thuộc một trong các trường hợp mà mình có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm (hoặc theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm) và tự xét thấy việc lấy lên để giải quyết là cần thiết hoặc khi có yêu cầu của Toà án cấp dưới, thì mới lấy lên để giải quyết.
Cần chú ý là Toà án cấp trên chỉ có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Toà án cấp dưới, nếu vụ án đó thuộc một trong các trường hợp đã được quy định tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 12 của Pháp lệnh.
b) Khi xem xét thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính, cần chú ý các quy định tại Điều 13 của Pháp lệnh về phân biệt thẩm quyền giữa Toà án và cấp trên trực tiếp mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Trước hết cần xem xét quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đó liên quan đến một người hay liên quan đến một số ngườì mà giải quyết như sau:
- Nếu quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính chỉ có liên quan đến một người, thì theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 13 của Pháp lệnh việc giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án mặc dù người khởi kiện vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính. Trong trường hợp này Toà án thụ lý vụ án và giải quyết theo thủ tục chung, đồng thời thông báo cho cấp trên trực tiếp của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính biết và yêu cầu chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Toà án (nếu có).
- Nếu quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính có liên quan nhiều người, căn cứ vào quy dịnh tại điểm b khoản 1 Điều 13 của Pháp lệnh, thì trong mọi trường hợp sau khi nhận được đơn kiện, Toà án cần có văn bản gửi cấp trên trực tiếp của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đó, yêu cầu cho Toà án biết bằng văn bản có người nào trong số những người có liên quan khiếu nại lên cấp trên trực tiếp đó hay không. Trong tường hợp nhận được văn bản trả lời cho biết có người khiếu nại, thì Toà án trả lại đơn kiện cho người khởi kiện hoặc chuyển đơn kiện cùng các tài liệu kèm theo đơn kiện mà Toà án nhận được cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và thông báo cho người khởi kiện biết. Trong trường hợp nhận được văn bản trả lời cho biết không có người nào khiếu nại, thì Toà án thụ lý vụ án và giải quyết theo thủ tục chung. Nếu sau khi thụ lý vụ án mới phát hiện có người khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đó, thì Toà án áp dụng điểm b khoản 1 Điều 13; điểm e khoản 1 Điều 41 của Pháp lệnh ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án và chuyển hồ sơ vụ án cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩn quyền của mình.
4. Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Khi xem xét áp dụng biện pháp khẩn cấp tạn thời "Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu kiện" quy định tại khoản 1 Điều 34 của Pháp lệnh, cần thi hành đúng quy định tại các khoản 2 và 3 Điều 33 của Pháp lệnh: "nếu có đủ căn cứ pháp luật và xét thấy cần thiết chấp nhận yêu cầu, thì Toà án ra ngay quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời", cụ thể là: