Công văn 175a/TANDTC-PC năm 2024 trả lời kiến nghị cử tri tỉnh Đồng Nai gửi tới sau kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV do Tòa án nhân dân tối cao ban hành

Số hiệu 175a/TANDTC-PC
Ngày ban hành 25/09/2024
Ngày có hiệu lực 25/09/2024
Loại văn bản Công văn
Cơ quan ban hành Tòa án nhân dân tối cao
Người ký Nguyễn Văn Tiến
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 175a/TANDTC-PC
V/v trả lời kiến nghị cử tri gửi tới sau kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV

Hà Nội, ngày 25 tháng 9 năm 2024

 

Kính gửi: Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai

Tòa án nhân dân tối cao nhận được kiến nghị của cử tri tỉnh Đồng Nai do Ban Dân nguyện của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chuyển đến theo Công văn số 655/BDN ngày 02/8/2024 với các nội dung kiến nghị:

1. “Kiến nghị ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự đối với Tội đánh bạc, Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, Tội mua bán trái phép chất ma túy và Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.”

Về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao đã tiến hành tổng kết thực tiễn thi hành quy định của Bộ luật Hình sự về Tội đánh bạc, Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, các tội phạm về ma túy. Trên cơ sở kết quả tổng kết, Tòa án nhân dân tối cao đang nghiên cứu xây dựng dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) về Tội đánh bạc, Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc và dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) về các tội phạm ma túy. Các nghị quyết này sẽ được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét, ban hành trong thời gian tới.

2. “Kiến nghị ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự đối với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức, Tội chống người thi hành công vụ, trường hợp phạm tội có tính chất côn đồ không đủ điều kiện hưởng án treo, tình tiết định khung “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội ”, xác định vai trò đồng phạm trong vụ án có đồng phạm.”

Về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao xin được trả lời như sau:

Về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành một số văn bản giải đáp vướng mắc trong xét xử như: Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019, Công văn số 50/TANDTC-PC ngày 07/4/2020, Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020.

Về Tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành một số văn bản giải đáp vướng mắc trong xét xử như: Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019, Công văn số 196/TANDTC-PC ngày 03/10/2023, Công văn số 163/TANDTC-PC ngày 10/9/2024.

Về trường hợp phạm tội có tính chất côn đồ không đủ điều kiện hưởng án treo thì tại khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo hướng dẫn những trường hợp không cho hưởng án treo gồm: người phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Tình tiết “Phạm tội có tính chất côn đồ” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm d khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Để hướng dẫn áp dụng thống nhất tình tiết này, hiện nay Tòa án nhân dân tối cao đang nghiên cứu xây dựng dự thảo Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 và Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Nghị quyết sẽ được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét, ban hành trong thời gian tới.

Về Tội chống người thi hành công vụ, “tình tiết định khung “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội””, “xác định vai trò đồng phạm trong vụ án có đồng phạm” thì trong thời gian tới, thông qua công tác tổng kết thực tiễn việc xét xử, Tòa án nhân dân tối cao sẽ tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất Bộ luật Hình sự liên quan đến nội dung mà cử tri nêu nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xét xử và bảo đảm thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ được Quốc hội giao tại Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13.

3. “Thời điểm thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố của bị đơn thì BLTTDS năm 2015 không có quy định và hiện nay Tòa án nhân dân tối cao cũng chưa có hướng dẫn hoặc giải đáp cụ thể...”

Về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao xin được trả lời như sau:

Khoản 3 Điều 200 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải”.

Khoản 1 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “1. Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu”.

Như vậy, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì:

- Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố nếu yêu cầu phản tố được thực hiện trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

- Tại phiên họp và sau phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì Tòa án chỉ chấp nhận việc bị đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố nếu việc thay đổi yêu cầu đó của họ không vượt quá yêu cầu phản tố ban đầu.

4.Khoản 3 Điều 106, khoản 1 Điều 495 quy định về trách nhiệm cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án. Mặc dù vậy, hiện nay không có quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi chậm hoặc không cung cấp tài liệu, chứng cứ trong vụ án dân sự trong khi đó lý do tạm đình chỉ do chờ cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng kéo dài thời hạn giải quyết các vụ án dân sự hiện nay.”

Về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao xin được trả lời như sau:

- Hiện nay, điểm a khoản 1 Điều 18 Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15 ngày 18/8/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quy định về chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ như sau: “Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: Không thực hiện yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ mà người đó đang quản lý, lưu giữ.”

5. “Theo quy định tại Điều 210 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, đương sự có quyền đề nghị Tòa án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng trong vụ án hoặc trong quá trình giải quyết vụ án nêu Tòa án thấy cần thiết thì cũng có quyền đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng trong vụ án. Vậy, sau khi Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Tòa án mới đưa thêm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng trong vụ án và người này có yêu cầu độc lập thì bị đơn có được quyền đưa ra yêu cầu phản tố không. Về nguyên tắc, Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải thì bị đơn không có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập nên cần có hướng dẫn hoặc giải đáp cụ thể vướng mắc này.

- Về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải

Thẩm phán chỉ tiến hành mở phiên họp khi cho rằng các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ (tài liệu chứng cứ do đương sự giao nộp, do Thẩm phán tiến hành thu thập theo quy định) đã đầy đủ để làm sáng tỏ các tình tiết trong vụ án. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không quy định phải mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải bao nhiêu lần và cũng không hạn chế số lần hòa giải. Tùy thuộc vào tính chất phức tạp của vụ án Thẩm phán sẽ là người quyết định tổ chức phiên họp, tuy nhiên chưa quy định cụ thể về quyền đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được đưa ra trước thời điểm mở phiên họp lần đầu hay lần cuối nên thực tiễn có nhiều trường hợp dẫn đến khiếu nại về việc trả lại đơn phản tố hoặc đơn yêu cầu độc lập khi áp dụng quy định về nội dung tòa án vẫn mở phiên họp tiếp theo nhưng họ không được quyền nộp đơn phản tố hoặc đơn yêu cầu độc lập. Mặc dù áp dụng trên tinh thần quyền yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được đưa ra trước thời điểm mở phiên họp lần đầu để giải quyết nhưng cần có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để thống nhất áp dụng pháp luật.

- Về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án

Đối với trường hợp Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án do đương sự không nộp tiền tạm ứng chi phí tố tụng và kèm theo hậu quả không được quyền khởi kiện lại là không phù hợp, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của đương sự. Kiến nghị sửa đổi theo hướng đương sự được quyền khởi kiện lại vụ án theo thủ tục chung đối với trường hợp nêu trên.

- Về hoãn phiên tòa, tạm ngừng phiên tòa

Về tạm ngừng phiên tòa: Trường hợp tạm ngừng phiên tòa để xác minh, thu thập bổ sung tài liệu theo điểm c khoản 1 Điều 259 Bộ luật Tố tụng dân sự và phát sinh thêm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án có đơn yêu cầu độc lập. Thực tiễn có quan điểm vụ án đã được công khai chứng cứ, hòa giải và đã đưa ra xét xử nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử mà không phải công khai chứng cứ, hòa giải lại và quan điểm khác đa số thực hiện tại thời điểm này người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mới biết được quyền và nghĩa vụ của mình trong vụ án, để đảm bảo quyền lợi của đương sự Tòa án phải tiến hành thụ lý đơn yêu cầu độc lập và tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải lại. Do đó, cần hướng dẫn cụ thể hơn thống nhất trong áp dụng. Theo quy định tại Điều 219 Bộ luật tố tụng Dân sự, thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.

- Trước khi mở phiên tòa, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án dân sự có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.

[...]