BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
CỤC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG NÔNG LÂM SẢN VÀ THỦY SẢN
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 1738/QLCL-CL1
V/v trả lời kiến nghị về kiểm tra, chứng nhận
chất lượng, ATTP
|
Hà Nội, ngày 29
tháng 06 năm 2015
|
Kính
gửi: Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam
(VASEP)
Cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản
và Thủy sản (NAFIQAD) có ý kiến về các kiến nghị của Hiệp hội Chế biến và Xuất
khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) liên quan tới lĩnh vực quản lý chất lượng, an
toàn thực phẩm thủy sản xuất khẩu tại văn bản số 86/2015/CV-VASEP ngày
05/6/2015 như sau:
1. Về kiến nghị “bãi bỏ quy định
chỉ cấp chứng nhận ATTP (H/C) vào EU đối với lô hàng có nguồn gốc nguyên liệu hải
sản nhập khẩu từ tàu khai thác/cơ sở sơ chế có EU code hoặc được kiểm tra, chứng
nhận bởi Cơ quan thẩm quyền nước xuất khẩu đáp ứng yêu cầu tương đương với EU”:
- Theo quy định tại khoản
2 Điều 41 Luật An toàn thực phẩm, điều kiện bảo đảm an toàn đối với thực phẩm
xuất khẩu là phải “phù hợp với quy định về an toàn thực phẩm của nước nhập
khẩu”. Do đó, lô hàng thực phẩm thủy sản xuất khẩu vào EU phải đáp ứng quy
định của EU.
- Theo quy định của EU (Điểm a, khoản
2, Điều 12 Quy định số (EC) 854/2004 ngày 29/4/2004): “Cơ sở sản xuất sản phẩm
có nguồn gốc động vật trong danh sách xuất khẩu vào EU (bao gồm cả cơ sở xử
lý nguyên liệu cung cấp cho cơ sở này) phải được cơ quan thẩm quyền bảo
đảm/chứng nhận phù hợp với các quy định liên quan của Cộng đồng EU hoặc các yêu
cầu tương đương với các quy định của Cộng đồng EU”.
- Trong báo cáo kết quả thanh tra tại
Việt Nam (Mục 5.2 trong báo cáo số DG(SANCO) 2009-8056-MR FINAL và Mục 5.6.4
trong báo cáo số DG(SANCO) 2014-7147-MR FINAL), cơ quan thẩm quyền EU đã
khuyến cáo cơ quan thẩm quyền Việt Nam (NAFIQAD) về việc yêu cầu nguyên liệu nhập
khẩu (để chế biến xuất khẩu vào EU) phải được chứng nhận đủ điều kiện xuất khẩu
vào EU.
- Theo Quyết định số 1999/813/EC ngày
16/11/1999, EU đã công nhận NAFIQAD là cơ quan thẩm quyền của Việt Nam thực hiện
việc cấp giấy chứng nhận an toàn thực phẩm cho các lô hàng thủy sản xuất khẩu
vào EU theo mẫu quy định. Mẫu chứng nhận an toàn thực phẩm cho thủy sản xuất khẩu
vào EU (theo quy định số 1012/2012 ngày 05/11/2012 của Ủy ban Châu Âu) có nội
dung: “được đánh bắt, xử lý trên tàu, đưa lên đất liền và xử lý chế biến, cấp
đông, rã đông trong điều kiện vệ sinh phù hợp với quy định tại Phần VIII,
Chương I tới IV của Phụ lục III của Quy định (EC) 853/2004”;
- Trên thực tế, trong thời gian vừa
qua, nhiều nước nhập khẩu thủy sản của Việt Nam như Malaysia, Đài Loan,... cũng
yêu cầu lô hàng thủy sản xuất khẩu vào các nước này để chế biến, xuất khẩu vào
EU phải được sản xuất tại các cơ sở được EU công nhận. Cụ thể:
+ Ngày 02/6/2009, Cơ quan Quản lý Chất
lượng và An toàn thực phẩm Liên bang Malaysia đã có văn bản số
(6)dlm.KKM-163/I/133 thông báo các lô hàng thủy sản (bao gồm nguyên liệu và bán
thành phẩm) nhập khẩu vào Liên bang Malaysia làm nguyên liệu chế biến tái xuất
vào EU phải đáp ứng các yêu cầu sau: Các lô hàng thủy sản trên phải được sản xuất
tại các cơ sở chế biến thủy sản Việt Nam có tên trong danh sách được EU công nhận;
đồng thời phải áp dụng mẫu giấy chứng nhận an toàn thực phẩm tương tự như mẫu
giấy theo quy định của EU.
+ Ngày 18/5/2015, Văn phòng Kinh tế
và Văn hóa Đài Bắc tại Hà Nội đã có công thư số 15081PG/KT đề nghị NAFIQAD khi
kiểm tra, chứng nhận cho các lô hàng thủy sản xuất khẩu vào Đài Loan (để chế biến,
xuất khẩu vào EU) phải được sản xuất tại cơ sở trong danh sách được EU công nhận
và công bố trên trang web chính thức của cơ quan thẩm quyền EU.
Do vậy, việc yêu cầu lô hàng thủy sản
nhập khẩu (kể cả nhập khẩu từ tàu cá) vào Việt Nam làm nguyên liệu để chế biến
xuất khẩu vào EU phải từ tàu chế biến/cơ sở sơ chế có code EU hoặc được cơ quan
thẩm quyền nước xuất khẩu chứng nhận đáp ứng yêu cầu tương đương với EU là hoàn
toàn phù hợp với quy định hiện hành của Việt Nam và EU. Ý kiến của VASEP cho rằng
Việt Nam và EU không có quy định về việc này là không chính xác.
2. Về kiến nghị “sửa đổi Thông
tư 48/2013/TT-BNNPTNT - cho quy định về tỷ lệ lấy mẫu”, cụ thể:
a. Đề nghị “lấy lô hàng xuất khẩu
làm căn cứ tính toán thay vì lô sản xuất làm gia tăng chi phí từ 1.2 đến 1.5 lần
và “giảm tỉ lệ % lấy mẫu”:
- Theo quy định tại khoản
2 Điều 41 Luật An toàn thực phẩm, điều kiện bảo đảm an toàn đối với thực phẩm
xuất khẩu là phải “phù hợp với quy định về an toàn thực phẩm của nước nhập
khẩu”. Hiện tại, có 45 trên tổng số hơn 120 nước nhập khẩu có quy định
doanh nghiệp muốn xuất khẩu vào nước họ phải được cơ quan kiểm tra an toàn thực
phẩm của Việt Nam chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm và lấy mẫu thẩm tra
an toàn thực phẩm đối với sản phẩm dự kiến xuất khẩu vào thị trường tương ứng.
Do vậy, việc lấy mẫu thẩm tra là yêu cầu của 45 trên tổng số hơn 120 nước nhập
khẩu mà Việt Nam phải tuân thủ. Theo thông lệ quốc tế và quy định của các nước
nhập khẩu, việc lấy mẫu thẩm tra nhằm mục đích kiểm chứng quá trình sản xuất có
thực sự đảm bảo an toàn thực phẩm hay không, do vậy, mẫu thẩm tra được lấy
trong quá trình sản xuất chứ không lấy mẫu từ lô hàng xuất khẩu. Hơn nữa, việc
lấy mẫu thẩm tra lô hàng sản xuất sẽ giúp cấp giấy chứng nhận cho lô hàng xuất
khẩu ngay trong ngày doanh nghiệp đăng ký xuất khẩu thay vì phải đợi kết quả kiểm
nghiệm mẫu nhiều khi lên đến 5 ngày.
- Theo thông lệ quốc tế, tỉ lệ lấy mẫu
thẩm tra được xác định tùy thuộc vào 04 tiêu chí: phân loại điều kiện đảm bảo
an toàn thực phẩm của cơ sở sản xuất; mức độ rủi ro an toàn thực phẩm của sản
phẩm; công suất, quy mô cơ sở sản xuất và tỉ lệ lô hàng thủy sản vi phạm an
toàn thực phẩm của Việt Nam và nước nhập khẩu. Quy định về tỉ lệ lấy mẫu thẩm
tra trong Thông tư 48 đáp ứng hoàn toàn 04 tiêu chí nói trên và nhẹ hơn quy định
hiện hành của Hoa Kỳ, Canada (Chi tiết tại mục 5, Phụ lục kèm theo). Tại thời điểm
hiện nay, tỉ lệ lô hàng thủy sản Việt Nam bị Cơ quan thẩm quyền Việt Nam và nước
ngoài cảnh báo chưa có cải thiện so với năm trước, cụ thể: Trong năm 2014 Việt
Nam có 136 lô hàng thủy sản xuất khẩu bị cơ quan thẩm quyền các nước cảnh báo
vi phạm an toàn thực phẩm, so với 124 lô trong năm 2013; kết quả thẩm tra, kiểm
tra chứng nhận lô hàng thủy sản xuất khẩu của các Trung tâm vùng thuộc Cục cũng
cho thấy tỷ lệ vi phạm trong năm 2014 là 1.56%, tăng so với năm 2013 (1.14%).
Do vậy, hiện tại chưa có đủ căn cứ để xem xét giảm tỷ lệ lấy mẫu thẩm tra theo
quy định tại Thông tư 48.
- Kết quả kiểm tra thực tế của
NAFIQAD từ thời điểm Thông tư 48 có hiệu lực (ngày 26/12/2013) tới thời điểm
15/6/2015 cho thấy: Số mẫu do NAFIQAD kiểm nghiệm theo Thông tư 48 đối với các
cơ sở trong danh sách ưu tiên đã giảm 30% so với Thông tư 55 trước đây, không
phải là tăng 1.2-1.5 lần như ý kiến của VASEP.
b. Đề nghị: “có hướng dẫn/quy định
kịp thời về chứng nhận tương đương VietGAP”:
Sau khi Thông tư 48 có hiệu lực,
NAFIQAD đã có văn bản số 231/QLCL-CL1 ngày 18/02/2014 gửi Tổng cục Thủy sản đề
nghị hướng dẫn, quy định về các hệ thống chứng nhận thực hành nuôi trồng thủy sản
tốt (như Global GAP, BAP, ASC,...) được coi là tương đương với VietGAP. Theo trả
lời của Tổng cục Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành
Thông tư số 54/2014/TT-BNNPTNT ngày 30/12/2014 quy định về công nhận các tiêu
chuẩn thực hành nông nghiệp tốt khác được coi là tương đương với VietGAP để được
hưởng chính sách hỗ trợ trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.
c. Đề nghị “phải có cơ chế để
thẩm tra và đánh giá công nhận việc duy trì điều kiện đảm bảo ATTP cơ sở sản xuất
của DN, từ đó công nhận hệ thống giám sát của DN; giảm bớt kiểm tra, chỉ tập
trung kiểm tra những doanh nghiệp chưa tốt, những khâu làm chưa tốt để khuyến
khích DN phấn đấu đạt được ở mức độ cao hơn”:
Chế độ kiểm tra điều kiện bảo đảm an
toàn thực phẩm của cơ sở cũng như tỷ lệ lấy mẫu thẩm tra trong Thông tư 48 đã
thể hiện theo đúng nội dung VASEP đề nghị, cụ thể:
- Tần suất kiểm tra điều kiện bảo đảm
an toàn thực phẩm của cơ sở xếp hạng 1 (rất tốt) và hạng 2 (tốt) là 1 lần trong
năm; của cơ sở xếp hạng 3 là 1 lần trong 6 tháng; của cơ sở xếp hạng 4 là 1 lần
trong 3 tháng.
- Tỷ lệ lấy mẫu thẩm tra nêu trên
cũng đã theo hướng công nhận và khuyến khích các doanh nghiệp làm tốt, thể hiện
ở chỗ: Cơ sở xếp hạng đặc biệt chỉ phải lấy mẫu thẩm tra 2-5%, cơ sở hạng 1 lấy
mẫu thẩm tra 10-15%, cơ sở hạng 2 lấy mẫu thẩm tra 20-25%.
3. Về kiến nghị: “Sửa Thông tư
48/2013 - cho quy định/thủ tục về đánh giá xếp hạng nhà máy”, cụ thể:
a. Đề nghị “sửa đổi, điều chỉnh
khung lỗi trong bảng đánh giá (checklist) cho phù hợp, theo hướng đảm bảo các
cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học”'.
Biểu mẫu đánh giá (checklist) tại
Thông tư 48 được xây dựng căn cứ theo quy định của Luật An toàn thực phẩm và
các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN). Khi xây dựng biểu mẫu đánh giá nêu
trên, NAFIQAD cũng đã tham khảo hướng dẫn đánh giá của EU, Canada, Hoa Kỳ và
Thái Lan, theo đó, biểu mẫu đánh giá phân loại điều kiện bảo đảm ATTP được xây
dựng theo 4 mức lỗi (Nhẹ - Mi, Nặng - Ma, Nghiêm trọng - Se, Tới hạn - Cr) và
phân thành 4 mức xếp loại (Hạng 1, 2, 3, 4). Do vậy, cách đánh giá xếp loại này
hoàn toàn có cơ sở pháp lý và phù hợp với thông lệ quốc tế, đã tương đồng và
nhẹ hơn so với Thái Lan. EU,... nên hoàn toàn đáp ứng kiến nghị nêu trên của
VASEP.
b. Đề nghị “sửa đổi, điều chỉnh
cấu trúc xếp hạng cơ sở chế biến theo hướng khuyến khích các DN làm tốt hơn
trong hoạt động kiểm soát ATTP của nhà máy. Quy định về đánh giá xếp loại đảm bảo
là để có cái mốc, có tính định hướng và mang tính chất cảnh báo để DN tuân thủ
và cải thiện, thúc đẩy DN phấn đấu nâng cao năng lực và hướng tới mục
tiêu ngày càng hoàn thiện hơn”:
Cấu trúc xếp hạng cơ sở trong Thông
tư 48 bao gồm 4 mức: Hạng 1 (rất tốt), hạng 2 (tốt), hạng 3 (đạt), hạng 4
(không đạt). Cấu trúc xếp hạng này đã rõ ràng và có tính định hướng các cơ sở
phấn đấu đạt hạng 1, hạng 2.
Trong biểu mẫu kiểm tra, đánh giá của
Thông tư 48 đã có nội dung về các sai lỗi còn tồn tại của các cơ sở, đồng thời
có ghi thời hạn khắc phục. Như vậy, đã bảo đảm mốc và định hướng để doanh nghiệp
cải thiện, khắc phục sai lỗi để ngày càng hoàn thiện hơn.
c. Đề nghị “việc phân loại DN
chỉ là để tập trung kiểm soát vào khâu yếu kém. Đề nghị lấy quy định của EU làm
chuẩn mực để sửa đổi/xây dựng tiêu chí đánh lỗi tương đương và xếp hạng theo 4
mức của EU”:
- Việc phân loại các cơ sở theo quy định
tại Thông tư 48 đã đảm bảo mục tiêu tập trung kiểm soát các cơ sở yếu kém theo
đúng kiến nghị của VASEP, cụ thể: Đối với cơ sở xếp hạng 1 (rất tốt) và hạng 2
(tốt) chỉ phải kiểm tra 1 lần trong 1 năm; nhưng các cơ sở xếp hạng 3 được kiểm
tra tần suất nhiều hơn (1 lần trong 6 tháng, tức là 2 lần trong 1 năm), cơ sở xếp
hạng 4 sẽ bị kiểm tra trong thời gian tối đa 3 tháng kể từ ngày kiểm tra trước
đó.
- Về xếp hạng cơ sở: Việc đánh giá xếp
hạng doanh nghiệp thực hiện theo khung lỗi và bảng tiêu chí xếp hạng. Không thể
chỉ so sánh bảng tiêu chí xếp hạng để cho rằng quy định đánh giá xếp hạng của
Việt Nam chặt hơn quy định của EU do số chỉ tiêu đánh giá theo quy định của EU
và Việt Nam là khác nhau. Với số chỉ tiêu có mức đánh giá sai lỗi tới hạn (Cr)
của Thông tư 48 thấp hơn rất nhiều so với EU (Thông tư 48: 21 chỉ tiêu, EU: 47
chỉ tiêu), với cùng 01 cơ sở sản xuất cụ thể, nếu đánh giá theo quy định tại
Thông tư 48 sẽ đạt mức xếp hạng cao hơn so với đánh giá theo quy định của EU.
(chi tiết xem tại Phụ lục kèm
theo)
Như vậy, quy định tại Thông tư 48 hiện
nay nhẹ hơn so với quy định của EU, hoàn toàn phù hợp với nước có trình độ
tương đồng với Việt Nam (như Thái Lan).
- Kết quả lấy ý kiến của cộng đồng
doanh nghiệp của NAFIQAD về biểu mẫu của Thông tư 48 (sau cuộc họp ngày 19/2/2014
với Bộ trưởng) cho thấy: 443 doanh nghiệp chiếm 90.6% trong tổng số 489
doanh nghiệp có ý kiến) cho rằng biểu mẫu Thông tư 48 là hợp lý; chỉ có 46
doanh nghiệp (chiếm 9.4%) cho rằng biểu mẫu chưa hoàn toàn hợp lý. Như vậy, đa
số các doanh nghiệp ủng hộ biểu mẫu hiện nay tại Thông tư 48.
Do vậy, đề nghị VASEP nghiên cứu kỹ
quy định của EU. Trong trường hợp VASEP vẫn tiếp tục có đề nghị điều chỉnh biểu
mẫu, NAFIQAD sẽ xem xét đề xuất Bộ trưởng cho phép sửa đổi Thông tư 48 để áp dụng
đúng biểu mẫu của EU.
4. Về kiến nghị: “sửa đổi Thông
tư 48/2013 - cho quy định về thu phí”, cụ thể:
a. Đề nghị “tuân thủ đúng và đầy
đủ theo Điều 48 Luật ATTP”:
Theo quy định tại khoản
3 Điều 48 Luật An toàn thực phẩm: Tổ chức, cá nhân có yêu cầu lấy mẫu, kiểm
nghiệm thực phẩm phải tự chi trả chi phí lấy mẫu, kiểm nghiệm. Việc lấy mẫu, kiểm
nghiệm để thẩm tra an toàn thực phẩm đối với doanh nghiệp trong danh sách ưu
tiên hoặc lấy mẫu kiểm nghiệm lô hàng xuất khẩu đối với doanh nghiệp ngoài danh
sách ưu tiên để cấp chứng nhận cho các lô hàng xuất khẩu là yêu cầu của doanh
nghiệp xuất khẩu nhằm đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu cụ thể. Việc doanh
nghiệp chủ động lựa chọn thị trường xuất khẩu là hoàn toàn tự nguyện dựa trên
nhu cầu và lợi ích của từng doanh nghiệp. Do đó, việc thu phí lấy mẫu kiểm nghiệm
thủy sản xuất khẩu theo các chỉ tiêu ATTP mà thị trường nhập khẩu yêu cầu là
tuân thủ đúng qui định tại khoản 3 Điều 48 Luật ATTP nêu
trên.
- Hoạt động thu phí này cũng phù hợp
với thông lệ quốc tế, Cơ quan kiểm tra tất cả các quốc gia trên thế giới đều
thu từ doanh nghiệp không những phí kiểm nghiệm mà còn thu phí kiểm tra cơ sở
SXKD, phí kiểm tra lấy mẫu lô hàng (tính theo giờ) với mức phí cao hơn nhiều so
với mức phí, lệ phí của Việt Nam khi kiểm tra, cấp chứng nhận ATTP cho các lô
hàng xuất khẩu.
b. Đề nghị “sửa đổi quy định tại
Điều 37, 38 của TT48 theo hướng Bộ NNPTNT quy định và phân
rõ các hạng mục công việc thuộc trách nhiệm kiểm tra-thẩm tra ATTP của Bộ
NNPTNT sẽ do CQTQ của Bộ NNPTNT chi trả”:
Điều 37, 38 của Thông
tư 48 đã quy định rõ trách nhiệm của Cơ sở được cấp Giấy
chứng nhận ATTP và chủ hàng hoặc cơ sở sản xuất lô hàng xuất khẩu, trong đó, có
việc nộp phí và lệ phí kiểm tra, thẩm định, chứng nhận theo quy định tại Điều 9 của Thông tư 48.
5. Về kiến nghị: “sửa đổi Thông
tư 48/2013 - cho quy định/thủ tục về cấp Giấy chứng nhận ATTP”, cụ thể:
a. Đề nghị “sửa đổi quy định tại
Điều 5, TT48 theo hướng đơn giản hóa hơn nữa thủ tục cấp
GCN ATTP cho DN. Trong đó, bao gồm cả việc ủy quyền thực hiện nhiệm vụ này cho
các cơ quan vùng của Cục, đồng thời bố trí nguồn lực cụ thể và công khai trên hệ
thống để DN biết và tiện liên hệ khi cần thiết”:
- Thực hiện chủ trương cải cách của
Chính phủ tại Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 12/3/2015, Quyết định số 08/QĐ-TTg
ngày 06/01/2015 của Thủ tướng Chính phủ, NAFIQAD đã rà soát lại thủ tục cấp Giấy
chứng nhận an toàn thực phẩm và đã đề xuất cắt giảm tối đa về thành phần hồ sơ
theo đúng yêu cầu và tiến độ nêu tại Kế hoạch đơn giản hóa thủ tục hành chính
trọng tâm năm 2015 tại Quyết định số 367/QĐ-BNN-PC ngày 29/01/2015 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn. Bên cạnh đó, Cục đã có văn bản số 1583/QLCL-KH
ngày 17/6/2015 đăng ký với Vụ Tổ chức cán bộ - Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn về việc nâng cấp hệ thống phần mềm để triển khai dịch vụ công trực
tuyến cấp độ 3, tiến đến cấp độ 4 đối với thủ tục hành chính này để tiết kiệm
thời gian, chi phí và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cộng đồng doanh nghiệp.
- Để đảm bảo tính khách quan, chính
xác và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực trong hệ thống, Cục đã chủ trì tổ chức
hoạt động kiểm tra, cấp giấy chứng nhận an toàn thực phẩm cho doanh nghiệp. Hiện
nay, các Cơ quan vùng thuộc Cục đã có đủ nguồn nhân lực được đào tạo, do vậy, Cục
sẽ có văn bản ủy quyền cho các cơ quan vùng thực hiện kiểm tra, cấp giấy chứng
nhận an toàn thực phẩm.
b. Đề nghị “thực hiện đúng quy
định về thời gian xử lý hồ sơ xác nhận kiến thức ATTP theo quy định tại Điều 11, Thông tư liên tịch 13/2014”:
- Ngày 03/10/2014, Cục đã có công văn
số 1917/QLCL-CL1 ủy quyền Cơ quan Chất lượng Trung bộ, Nam bộ tổ chức kiểm tra,
cấp giấy xác nhận kiến thức ATTP cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh thủy sản xuất
khẩu tại địa bàn quản lý. Tuy nhiên, nhiều cơ sở không tuân thủ đúng thời gian
đăng ký theo quy định của Luật An toàn thực phẩm (trước 06 tháng tính đến ngày
Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP hết hạn), Cục đã phải ban hành văn bản
số 2200/QLCL-CL1 ngày 30/10/2014 thông báo danh sách khoảng 300 cơ sở đã hoặc gần
hết hạn hiệu lực Giấy chứng nhận ATTP, đồng thời yêu cầu các cơ sở đăng ký để
được kiểm tra, thẩm định điều kiện bảo đảm ATTP theo đúng quy định. Để hoàn thiện
hồ sơ đăng ký kiểm tra, thẩm định và cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện
ATTP nêu trên, hầu hết các cơ sở đã đồng thời gửi hồ sơ đăng ký xác nhận kiến
thức ATTP về Cục/Cơ quan Chất lượng Trung bộ, Nam bộ sau khi Cục có văn bản số
2200/QLCL-CL1, dẫn đến số lượng hồ sơ tăng đột biến, do đó, đã có một số ít trường
hợp thời gian kiểm tra, cấp giấy xác nhận kiến thức ATTP bị kéo dài. Kể từ đầu
năm 2015 đến nay, không còn trường hợp nào có thời gian kiểm tra, cấp giấy xác
nhận kiến thức ATTP bị kéo dài.
- Trong thời gian tới, đề nghị VASEP
thông báo tới các doanh nghiệp thành viên về việc tuân thủ đúng quy định về thời
gian đăng ký kiểm tra, cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP theo quy định
của Luật An toàn thực phẩm. Đồng thời, Cục cũng sẽ chủ động rà soát, cân đối
nguồn lực thực hiện việc kiểm tra, cấp giấy xác nhận kiến thức ATTP để bảo đảm
đáp ứng đầy đủ, đúng tiến độ thời gian và bảo đảm chất lượng theo quy định.
6. Về kiến nghị “một số quy định/thủ
tục hành chính khác nữa trong khuôn khổ TT 48/2013/TT-BNNPTNT”, cụ thể:
6.1. Về các quy định đối với cơ sở
trong danh sách ưu tiên:
a. Đề nghị “chỉ bãi bỏ việc ưu
tiên đối với thị trường bắt buộc của nước nào bị cảnh báo, hoặc thị trường nào
bị cơ quan thẩm quyền cảnh báo thôi, chứ không bỏ ưu tiên với tất cả các thị
trường”:
Theo quy định tại Thông tư 48, việc
áp dụng chế độ kiểm tra chặt khi có lô hàng cảnh báo chỉ áp dụng đối với sản
phẩm/nhóm sản phẩm vi phạm, các sản phẩm khác của doanh nghiệp vẫn được áp
dụng chế độ ưu tiên (quy định này vẫn nhẹ hơn so với Thái Lan, Indonesia là
đình chỉ xuất khẩu). Mặt khác, khi sản phẩm/nhóm sản phẩm bị một thị trường cảnh
báo, tức là hoạt động kiểm soát an toàn thực phẩm của sản phẩm/nhóm sản phẩm đó
đang có vấn đề, do đó việc áp dụng chế độ kiểm tra chặt đối với sản phẩm/nhóm sản
phẩm đó xuất khẩu đi tất cả các thị trường trong Thông tư 48 là hoàn toàn phù hợp
với nguyên tắc phòng ngừa trong kiểm soát an toàn thực phẩm.
b. Đề nghị “chỉ nên quy định là
bị cảnh báo ở mức giới hạn là bao nhiêu phần trăm thì không được nằm trong danh
sách ưu tiên đặc biệt”: quy định hiện tại trong
Thông tư 48 về việc cơ sở không có lô hàng bị cảnh báo trong thời gian 01 năm để
được vào danh sách ưu tiên đặc biệt là phù hợp vì như vậy mới chứng tỏ doanh
nghiệp duy trì rất tốt điều kiện bảo đảm ATTP để đưa vào danh sách ưu tiên đặc
biệt.
c. Đề nghị “Bộ NNPTNT cần có
các quy định, hướng dẫn về các chứng nhận tương đương VietGAP”:
Nội dung này đã được trả lời tại mục
2.b ở trên.
d. Đề nghị “về việc gửi giấy
đăng ký cấp chứng nhận an toàn thực phẩm, đề nghị Bộ NNPTNT nới lỏng thêm thời
gian gửi đăng ký (khoảng 7 ngày) để DN có thời gian thực hiện, đặc biệt là các
lô xuất khẩu EU”:
Theo thông lệ quốc tế, Giấy chứng nhận
an toàn thực phẩm phải được cấp ngay sau khi lô hàng được thông quan xuất khẩu.
Các đoàn thanh tra của EU, Hàn Quốc, Liên bang Nga cũng kiểm tra rất nghiêm ngặt
yêu cầu này qua các đợt kiểm tra tại Việt Nam. Việc Thông tư 48 quy định “không
quá 2 ngày” là đã căn cứ trên thực tiễn sản xuất kinh doanh tại Việt Nam, trên
tinh thần hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp.
6.2. Về xử lý trường hợp lô hàng bị
cảnh báo:
a. Đề nghị “sửa đổi, bổ sung,
làm rõ và chỉ áp dụng mục c Điều 36 đối với các thị trường có yêu cầu kiểm soát
nhà nước”:
- Phạm vi áp dụng của Điều 36 phù hợp
với phạm vi Thông tư 48 tại Điều 1, tức là chỉ áp dụng với các thị trường có
yêu cầu NAFIQAD kiểm tra chứng nhận.
- Việc sửa đổi, bổ sung Điều 36 là
không cần thiết do phạm vi áp dụng đã được quy định tại Điều 1 Thông tư 48.
b. Đề nghị “Bộ NNPTNT quy định
rõ thời gian cơ quan kiểm tra, chứng nhận có văn bản chấp thuận báo cáo kết quả
điều tra nguyên nhân, biện pháp khắc phục của cơ sở”:
Khoản 2 Điều 36 Thông
tư 48 đã quy định rõ: “Trong thời hạn 03 ngày làm việc
kể từ khi nhận được báo cáo kết quả điều tra nguyên nhân và biện pháp khắc phục
của cơ sở, Cơ quan kiểm tra, chứng nhận thẩm tra các nội dung báo cáo và có văn
bản thông báo kết quả thẩm tra tới cơ sở. Trường hợp phải kiểm tra đột xuất để
thẩm tra, Cơ quan kiểm tra, chứng nhận thực hiện và thông báo kết quả tới cơ sở
trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ khi nhận được báo cáo của cơ sở”.
6.3. Đề nghị “sửa đổi kiểm tra
định kỳ là hình thức kiểm tra có báo trước (ít nhất trước 05 ngày)”
- Kiểm tra định kỳ được coi là một hoạt
động kiểm tra chính thức của cơ quan quản lý an toàn thực phẩm và không báo trước
để phù hợp với thông lệ quốc tế và quy định của các nước nhập khẩu, cụ thể, khoản
2 Điều 3, Quy định (EC) 882/2004 của Hội đồng châu Âu về kiểm soát chính thức
nêu rõ “Kiểm tra chính thức cần được thực hiện mà không báo trước, ngoại
trừ một số trường hợp cần thiết - Official controls shall be carried out
without prior warning, except in cases such as audits where prior
notification of the feed or food business operator is necessary”.
- Mục đích việc kiểm tra định kỳ là
đánh giá thực chất việc duy trì điều kiện bảo đảm ATTP của Cơ sở. Các nội dung
được kiểm tra là các quy định về điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm trong các
Quy chuẩn kỹ thuật. Do vậy, Cơ sở không cần chuẩn bị thêm hồ sơ, tài liệu nào
cho đoàn kiểm tra, không phải dừng hay bị cản trở gì đối với hoạt động sản xuất
của mình. Vì vậy, để bảo đảm tính khách quan, công khai, minh bạch thì việc
“báo trước để chuẩn bị” là không cần thiết. Theo các quy định về kiểm tra nêu tại
Điều 68 Luật An toàn thực phẩm, không có nội dung nào quy định
kiểm tra phải thông báo trước. Trong thực tế kiểm tra đã phát hiện nhiều trường
hợp Cơ sở chuẩn bị và ngụy tạo hồ sơ, đối phó với đoàn kiểm tra khi kiểm tra có
báo trước, dẫn đến việc đánh giá điều kiện đảm bảo ATTP của Cơ sở tại thời điểm
kiểm tra không phản ánh đúng thực chất các hoạt động bảo đảm ATTP trong quá
trình sản xuất của doanh nghiệp trong suốt thời gian dài giữa 2 lần kiểm tra.
Do vậy, kiến nghị nêu trên của VASEP
là không phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế.
6.4. Đề nghị “bỏ nội dung khống
chế về thời gian 24 giờ ra khỏi định nghĩa lô hàng sản xuất vì không phù hợp với
nhiều trường hợp thực tế theo khía cạnh đồng nhất của 01 lô hàng cũng như không
đúng với định nghĩa tương tự trong và ngoài nước”:
Định nghĩa về lô hàng sản xuất tại
Thông tư 48 nêu trên được xây dựng trên cơ sở tham khảo hướng dẫn của Codex và
quy định của Canada, Mỹ (Hoa Kỳ) và Australia, cụ thể:
Theo định nghĩa Codex CAC/GL- 50/2004 về hướng
dẫn lấy mẫu chung: “A Iot is a definite quantity of some commodity manufactured
or produced under conditions, which are presumed uniform”.
Nội dung quy định của Hoa Kỳ: Trong Chương trình
chứng nhận thủy sản xuất khẩu (SIP), theo quy định của USDC, Chapter 3:
Policies, Procedures and Requirements for the Approval of Facilities and
Systems, the regulations promulgated under these authorities (i.e., 50 CFR Part
260): “Lot: A production unit as defined by mutual agreement between the
processor and the USDC Seafood Inspection Program consisting of processed
product of the same type, style, and size which has been produced under
conditions as nearly uniform as possible. The quantity of product in a
“lot” may not exceed that quantity which is produced during a specific
production shift” (không vượt quá một ca sản xuất)
Quy định của Australia (A Guideline to Compliance
with the Export Control Fish & Fish Products, Orders 2005): “A ‘lot’, when
used in relation to processed food, means a quantity of processed food of the
same type, processed or packed under essentially the same conditions, during
a particular period of time interval not generally exceeding 24 hours,
and usually from a particular processing or packing line or other identifiable
processing or packing line.”
Quy định của Canada (Fish Inspection Program
Sampling Policy); “A lot of fresh fish refers to a shipment or
part of a shipment of fish which has been processed in the same manner by the
same producer in a 24-hour period”.
Như vậy, quy định “Lô hàng sản xuất” nêu tại Thông
tư 48 phù hợp thông lệ quốc tế (tương tự quy định của Australia và Canada là
trong vòng không quá 24h) và thuận lợi hơn so với quy định của USDC Hoa Kỳ
(tính theo ca sản xuất). Quy định “Lô hàng sản xuất” nêu tại Thông tư 48 là hoàn
toàn phù hợp thông lệ quốc tế và có cơ sở khoa học. Do đó, kiến nghị của
VASEP về việc bỏ quy định này là không phù hợp.
6.5. Về ý kiến cho rằng “số mẫu lưu kho cho
việc thẩm tra của Cục NAFIQAD là lớn”:
Theo quy định tại khoản 2, Điều 27
Thông tư 48, cơ quan kiểm tra, chứng nhận thống nhất với doanh nghiệp về kế
hoạch lấy mẫu thẩm tra. Do vậy, để hạn chế mẫu lưu kho, các doanh nghiệp cần chủ
động cung cấp thông tin kịp thời cho Trung tâm vùng kế hoạch sản xuất và xuất
khẩu để sớm thống nhất kế hoạch lấy mẫu thẩm tra.
6.6. Đề nghị “trả lại GCN cho DN theo đường
bưu điện hoặc nhằm thực hiện đúng các quy định hiện hành về việc cấp & trả
giấy của cơ quan nhà nước, hỗ trợ tối đa cho DN”:
Cục đã và đang gửi Giấy chứng nhận ATTP cho cơ sở
theo đường bưu điện theo đúng quy định hiện hành về cấp và trả giấy chứng nhận
của cơ quan nhà nước. Một số trường hợp doanh nghiệp phản ánh không nhận được
và Cục đã phải cấp và gửi lại Giấy chứng nhận. Do việc chuyển phát văn bản theo
đường bưu điện có thể bị thất lạc hoặc thời gian kéo dài, nên theo đề nghị của
một số cơ sở, Cục đã thực hiện gửi Giấy chứng nhận ATTP theo hình thức khác như
chuyển phát nhanh, thư bảo đảm (chi phí do doanh nghiệp chi trả), hoặc cung cấp
cho người/đơn vị đại diện được cơ sở ủy quyền đến Cục lấy trực tiếp. Đây hoàn
toàn xuất phát từ đề nghị chủ động của doanh nghiệp, không phải là yêu cầu từ
phía Cục.
Trân trọng./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Bộ trưởng (để b/c);
- TT. Vũ Văn Tám (để b/c);
- Vụ Pháp chế; Tổng cục Thủy sản;
- PCT. Ngô Hồng Phong;
- Lưu: VT, CL1.
|
CỤC TRƯỞNG
Nguyễn Như Tiệp
|
PHỤ LỤC:
SO
SÁNH QUY ĐỊNH TẠI THÔNG TƯ 48 VỚI CÁC NƯỚC
1. Về biểu mẫu kiểm tra (so với
quy định của EU):
Biểu mẫu của Việt Nam và EU cùng có 4
mức lỗi là nhẹ (Mi), nặng (Ma), nghiêm trọng (Se) và tới hạn (Cr).
So sánh cụ thể biểu mẫu kiểm tra điều
kiện bảo đảm ATTP của VN và EU (so sánh loại hình phổ biến nhất là cơ sở chế biến
thủy sản đông lạnh):
Về mức lỗi của chỉ tiêu đánh giá:
Mức lỗi
|
Số lượng chỉ
tiêu
|
Việt Nam (tại
TT48)
|
EU
|
Mi
|
26
|
13
|
Ma
|
107
|
84
|
Se
|
95
|
99
|
Cr
|
21
|
47
|
Nhận xét, qua bảng so sánh trên cho
thấy số chỉ tiêu đánh giá mức lỗi cao nhất (Cr) của Thông tư 48 ít hơn so với
quy định của EU (VN: 21 chỉ tiêu, EU: 47 chỉ tiêu);
Như vậy, quy định của VN nhẹ
hơn so với EU, cụ thể: khả năng cơ sở bị lỗi Cr và xếp hạng 4 (không đạt yêu cầu)
theo Thông tư 48 thấp hơn nhiều so với loại D (không đạt yêu cầu) của EU.
2. So sánh mức đánh giá sai lỗi cụ
thể (so với qny định của EU):
Nhóm chỉ tiêu
|
Ví dụ một số chỉ
tiêu cụ thể
|
Thông tư 48
|
EU
|
Bố trí mặt bằng nhà xưởng, trang thiết bị
|
Không có khả năng hiện thực lây nhiễm cho sản phẩm
|
Ma, Se, Cr
|
Se, Cr
|
Nền
|
Nhẵn, phẳng, có độ dốc thích hợp/ dễ làm vệ sinh,
khử trùng
|
Mi, Ma
|
Ma, Se
|
Tường
|
Dễ làm vệ sinh khử trùng
|
Ma
|
Mi, Ma, Se
|
Cửa
|
Dễ làm vệ sinh khử trùng
|
Mi, Ma
|
Mi, Ma, Se
|
Bền
|
Mi, Ma
|
Mi, Ma
|
Hệ thống thông gió
|
Đủ công suất/không có sự ngưng tụ hơi nước
|
Ma, Se
|
Mi, Ma, Se
|
Hệ thống chiếu sáng
|
Đủ ánh sáng và có chụp bảo vệ
|
Ma, Se
|
Ma, Se
|
Phương tiện rửa và khử trùng tay công nhân
|
Đủ số lượng
|
Ma, Se
|
Ma, Se
|
Không dùng vòi nước vận hành bằng tay
|
Ma, Se
|
Se
|
Có xà phòng nước
|
Ma, Se
|
Se
|
Có dụng cụ làm khô tay phù hợp
|
Ma, Se
|
Se
|
Dụng cụ làm vệ sinh nhà xưởng, trang thiết bị
|
Đầy đủ, chuyên dùng
|
Ma, Se
|
Ma, Se
|
Nước thải
|
Hệ thống thoát nước đủ khả năng thoát nước thải
|
Ma, Se
|
Ma, Se, Cr
|
Chất thải
|
Thùng chứa phế liệu có vật liệu và cấu trúc thích
hợp
|
Ma, Se
|
Ma, Se
|
Hệ thống cung cấp nước
|
An toàn vệ sinh
|
Cr
|
Cr
|
Đủ nước để sử dụng
|
Ma, Se
|
Se
|
Hệ thống cung cấp nước đá
|
An toàn vệ sinh
|
Se, Cr
|
Cr
|
Bảo quản nước đá hợp vệ sinh
|
Ma, Se
|
Ma, Se
|
Khu vực vệ sinh công nhân
|
Đủ số lượng
|
Mi, Ma
|
Cr
|
Bố trí thích hợp (không thông với khu vực chế biến,...)
|
Ma, Se
|
Se, Cr
|
Bảo hộ lao động
|
Bảo hộ lao động đủ số lượng
|
Ma, Se
|
Ma, Se
|
Có phòng thay bảo hộ lao động
|
Se
|
Ma, Se
|
Hóa chất, phụ gia
|
Được phép sử dụng, rõ nguồn gốc
|
Se, Cr
|
Se, Cr
|
Hệ thống cấp đông mạ băng
|
Thiết bị đủ công suất để hạ nhiệt độ theo
quy định
|
Ma, Se
|
Se
|
Kho lạnh
|
Duy trì ở nhiệt độ thích hợp
|
Ma, Se
|
Se, Cr
|
Có nhiệt kế tự ghi
|
Se
|
Se
|
Môi trường xung quanh
|
Không ảnh hưởng vào nhà máy
|
Mi, Ma
|
Ma, Se
|
Điều kiện bảo đảm của hệ thống QLCL
|
Cán bộ QLCL phải được cập nhật thường xuyên
kiến thức về QLCL
|
Ma, Se
|
Se
|
Thực hiện chương trình QLCL
|
Duy trì điều kiện vệ sinh nhà xưởng
|
Ma, Se
|
Se
|
Thực hiện vệ sinh công nhân đúng cách
|
Ma, Se
|
Se, Cr
|
Kiểm soát sức khỏe công nhân đúng cách
|
Se, Cr
|
Cr
|
Thực hiện đúng cách việc giám sát tại điểm kiểm
soát tới hạn (kiểm soát hiệu quả các thông số tới hạn)
|
Se, Cr
|
Cr
|
Thực hiện đầy đủ, kịp thời hành động sửa chữa khi
thông số giám sát bị vi phạm
|
Ma, Se, Cr
|
Cr
|
Hồ sơ
|
Hồ sơ đầy đủ
|
Ma, Se
|
Se
|
Hồ sơ đủ độ tin cậy
|
Se, Cr
|
Cr
|
Theo bảng so sánh nêu trên, có 35 chỉ
tiêu trong biểu mẫu của Việt Nam và EU tương đồng/trùng nhau, trong đó:
- 9/35 chỉ tiêu của Thông tư 48 có mức
đánh giá cao nhất thấp hơn (nhẹ hơn) so với EU.
- 26/35 chỉ tiêu trong biểu mẫu của
Thông tư 48 có mức đánh lỗi cao nhất tương đương với EU, tuy nhiên trong đó có 16/35
chỉ tiêu trong Thông tư 48 cho phép đánh giá ở mức lỗi nhẹ hơn EU.
Như vậy, mức đánh giá của Thông
tư 48 nhẹ hơn so với quy định của EU.
3. So sánh về xếp loại cơ sở (so với
quy định của EU):
- Về xếp loại cơ sở: Việt Nam và EU
cùng phân thành 4 loại (Thông tư 48 phân loại là 1, 2, 3, 4; quy định của EU
phân loại thành A, B, C, D), cụ thể:
Xếp hạng
|
Việt Nam (tại
TT48)
|
EU
|
1 / A (rất tốt)
|
Mi ≤ 11 - Ma, Ma ≤ 5, Se = 0, Cr = 0
|
Mi ≤ 6, Ma ≤ 5, Se = 0, Cr = 0
|
2 / B (tốt)
|
Mi ≥ 11, Ma = 0, Se = 0, Cr
= 0
Mi = NA, Ma ≥ 6, Se = 1, Cr
= 0
Mi = NA, Ma = 7, Se = 0, Cr = 0
|
Mi ³ 7, Ma = 6 ¸ 10, Se = 1¸2, Cr = 0
|
3 /C (đạt yêu cầu)
|
Mi = NA, Ma ≤ 10, Se ≤ 2, Cr = 0
Mi = NA, Ma = 11, Se ≤ 1, Cr
= 0
|
Mi = NA, Ma ≥ 11, Se = 3¸4,
Cr=0
|
4 / D (không đạt)
|
Cr ≥ 1 ; Mi, Ma, Se = NA;
Se ≥ 3 ; Mi,
Ma, Cr = NA;
Ma ≥ 11; Mi, Se, Cr = NA;
|
Mi = NA, Ma = NA, Se ≥ 5, Cr
= 1
|
Theo bảng phân loại như trên: Xếp loại
cơ sở của Việt Nam chặt hơn so với EU, tuy nhiên do biểu mẫu đánh giá của Việt
Nam nhẹ hơn EU (ít lỗi Cr, Se hơn so với EU) nên việc xếp loại như trên là hoàn
toàn phù hợp logic. Mặt khác, do biểu mẫu của EU nhiều lỗi Cr hơn nên tỷ lệ/xác
suất cơ sở không đạt (xếp loại D) của EU sẽ cao hơn so với quy định của Việt
Nam (như đã nêu tại mục a ở trên).
Như vậy, đánh giá chung thì quy
định tại Thông tư 48 không nghiêm ngặt hơn so với EU như phản ánh của VASEP.
4. Về tần suất kiểm tra cơ sở (so
với quy định của EU):
Xếp hạng
|
Tần suất kiểm
tra tại TT48
|
Tần suất kiểm
tra theo quy định của EU
|
1 (A)
|
1 năm/lần
|
3 tháng/lần
|
2 (B)
|
1 năm/lần
|
1-2 lần/tháng
|
3 (C)
|
6 tháng/lần
|
Hàng tuần
|
4 (D)
|
Theo thời hạn khắc
phục của cơ quan kiểm tra nhưng không quá 3 tháng
|
Kiểm tra liên tục
đến khi doanh nghiệp lên hạng; không được phép xuất khẩu
|
Ghi chú
|
|
Đối với cơ sở mới
được công nhận: Tần suất kiểm tra định kỳ của EU là hàng tuần hoặc 2 tuần/lần
trong thời gian từ 6 tháng đến 1 năm (kể cả cơ sở xếp loại A, B).
|
Nhận xét: Qua bảng so sánh trên có thể
thấy quy định về tần suất của EU rất chặt chẽ và cao hơn rất nhiều so với
quy định tai Thông tư 48.
Như vậy, quy định tại Thông tư
48 hiện nay là nhẹ hơn so với quy định của EU.
5. So sánh chế độ lấy mẫu thẩm tra
ATTP thủy sản xuất khẩu với các nước (Hoa Kỳ, Canada, Thái Lan)
TT
|
Quốc gia
|
Nội dung quy định
|
1
|
Hoa Kỳ (Policies, Procedures and Requirements
for the Approval of Facilities and Systems - USDC)
|
- Số lượng sản phẩm tối thiểu được thẩm tra phụ
thuộc vào tổng số sản phẩm được sản xuất kể từ lần thẩm tra trước (Thời gian
giữa các lần thẩm tra sản phẩm liên tiếp không vượt quá 1 tuần sản xuất).
- Đối với mỗi sản phẩm được thẩm tra, lựa chọn ngẫu
nhiên tối thiểu 25% tổng số các lô được sản xuất kể từ lần thẩm tra
trước đó
|
2
|
Canada (Fish products inspection manual,
Canadian Food Inspection Agency)
|
- Đối với cơ sở đã được công nhận: kiểm tra tối
thiểu 10% tổng số lô hàng đăng ký chứng nhận.
- Đối với cơ sở chưa được công nhận: lấy mẫu 100%
số lô hàng đăng ký chứng nhận.
|
3
|
Thái Lan
(Qui trình kiểm tra Thủy sản xuất khẩu của Bộ
phận Thanh tra và Quản lý chất lượng Thủy sản (FIQD) - Tổng Cục Thủy sản
Thái Lan (DOF))
|
- Cơ sở trong danh sách “đặc quyền”:
Cơ sở loại 1: lấy mẫu thẩm tra 3 tháng 1 lần
Cơ sở loại 2: lấy mẫu thẩm tra 2 tháng 1 lần
- Cơ sở không có tên trong danh sách “đặc quyền”:
Lấy mẫu thẩm tra từng lô hàng
|
4
|
Việt Nam (Thông tư 48)
|
Sản phẩm theo
mức rủi ro
|
Chế độ thẩm
tra
|
Đặc biệt
|
Hạng 1
|
Hạng 2
|
Sản phẩm rủi ro
thấp
|
2%
|
10%
|
20%
|
Sản phẩm rủi ro
cao
|
5%
|
15%
|
25%
|
|
Như vậy, tỷ lệ lấy mẫu thẩm tra phụ
thuộc mức nguy cơ của sản phẩm (cao, thấp) và phân loại điều kiện bảo đảm ATTP
của doanh nghiệp (đặc biệt, hạng 1, hạng 2). So với thông lệ quốc tế, đối với
các doanh nghiệp “đặc biệt”, tỷ lệ lấy mẫu thẩm tra rất thấp, chỉ là 2% đối với
sản phẩm nguy cơ thấp và 5% đối với sản phẩm nguy cơ cao; đối với các doanh
nghiệp khác, tỷ lệ lấy mẫu thẩm tra thấp nhất là 10% đối với sản phẩm nguy cơ
thấp (tương ứng với mức tối thiểu của Canada) và cao nhất là 25% (tương ứng mức
tối thiểu của Hoa Kỳ).