Công ước về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia và các công dân quốc gia khác
Số hiệu | Khongso |
Ngày ban hành | 18/03/1965 |
Ngày có hiệu lực | |
Loại văn bản | Điều ước quốc tế |
Cơ quan ban hành | *** |
Người ký | *** |
Lĩnh vực | Đầu tư,Thủ tục Tố tụng |
CÔNG ƯỚC
VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẦU TƯ GIỮA CÁC QUỐC GIA VÀ CÁC CÔNG DÂN QUỐC GIA KHÁC
Ðiều 1: Ðịnh nghĩa
(1) "Công ước" có nghĩa là Công ước về Giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia khác được chuyển đến các chính phủ bởi Ban Giám đốc điều hành của Ngân hàng quốc tế về xây dựng lại phát triển ngày 18-3-1965 và có hiệu lực từ ngày 14-10-1965.
(2) "Trung tâm" có nghĩa là Trung tâm quốc tế giải quyết các tranh chấp đầu tư được thành lập theo Ðiều 1 của Công ước.
(3) "Ban Thư ký" có nghĩa là Ban Thư ký của Trung tâm.
(4) "Quốc gia thành viên" là Quốc gia mà Công ước có hiệu lực áp dụng.
(5) "Tổng Thư ký" có nghĩa là Tổng Thư ký hoặc Phó Tổng Thư ký của Trung tâm.
(6) "Công dân của quốc gia khác" nghĩa là người không phải là công dân của quốc gia là một bên tranh chấp hoặc là người mà các bên tranh chấp thỏa thuận không coi là công dân của quốc gia là một bên tranh chấp.
Ðiều 2: Cơ chế bổ trợ
Ban thư ký của Trung tâm được ủy quyền quản lý theo các quy định của các quy tắc này các tiến trình tố tụng (xét xử) giữa một quốc gia (hoặc cơ quan, tổ chức địa diện của quốc gia) và công dân của quốc gia khác, thuộc các trường hợp sau đây:
(a) Các tiến trình tố tụng hòa giải và trọng tài giải quyết các tranh chấp mang tính pháp lý phát sinh trực tiếp từ việc đầu tư mà nó không thuộc thẩm quyền của Trung tâm bởi lý do một trong các bên tranh chấp không phải là quốc gia thành viên của Công ước;
(b) Các tiến trình tố tụng hòa giải và trọng tài giải quyết các tranh chấp mang tính pháp lý phát sinh trực tiếp từ việc đầu tư mà nó không thuộc thẩm quyền của Trung tâm bởi lý do các tranh chấp đó không phát sinh trực tiếp từ việc đầu tư nhưng một trong các bên tranh chấp hoặc quốc gia có công dân là bên tranh chấp là quốc gia thành viên của Công ước; và
(c) Các tiến trình tố tụng được điều chỉnh bởi các Quy tắc này sau đây được gọi là Cơ chế bổ trợ.
Bình luận
(i) Quy định này xác định phạm vi điều chỉnh của Cơ chế bổ trợ không qua việc đưa ra 3 loại tiến trình tố tụng có thể được điều hành bởi Ban Thư ký của Trung tâm. Có một yêu cầu chung đối với cả ba loại tiến trình đó, cụ thể là các bên của tiến trình tố tụng phải là quốc gia (hoặc là cơ quan, tổ chức đại diện của quốc gia) là một bên và bên kia là công dân của quốc gia khác. Cả ba loại này đều chia sẻ chung một điểm chung nữa là chúng không thuộc thẩm quyền của Trung tâm bởi vì những yêu cầu về ratione personae [đối tượng điều chỉnh] đã không được đáp ứng hoặc tranh chấp đó không phải là tranh chấp đầu tư hoặc loại hình tố tụng đó, cụ thể là về việc tìm kiếm tình tiết khách quan, không được Công ước điều chỉnh.
(ii) Cần lưu ý rằng trong trường hợp tiến trình hòa giải hoặc trọng tài theo các điểm (a) và (b) thì quốc gia đương sự của tranh chấp hoặc quốc gia có công dân của mình là đương sự của tranh chấp phải là quốc gia thành viên của Công ước.
(iii) Ðiểm (b) cần được giải thích phù hợp với các quy định tại các Điều 4 (3) và (4).
Ðiều 3: Không áp dụng Công ước
Vì các tiến trình tố tụng quy định tại Ðiều 2 là nằm ngoài thẩm quyền của Trung tâm, do đó không một quy định nào của Công ước được áp dụng đối với chúng hoặc đối với các khuyến nghị, các phán quyết hoặc các báo cáo có thể được đưa ra trong qúa trình giải quyết tranh chấp.
Bình luận
Cần lưu ý rằng các quy định của Công ước không được áp dụng đối với các tiến trình tố tụng của Cơ chế bổ trợ. Liên quan đến các tiến trình tố tụng trọng tài thì, không giống như những phần phán quyết được đưa ra theo các quy định của Công ước, những phán quyết đó không bắt nguồn từ pháp luật trong nước và việc công nhận và thi hành chúng sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật quốc tế, bao gồm những Công ước quốc tế liên quan.
Ðiều 4: Việc tiếp cận với Cơ chế bổ trợ về các tiến trình tố tụng hòa giải và trọng tài phải được sự đồng ý của Tổng Thư ký.
(1) Bất kỳ thỏa thuận nào về tiến trình tố tụng hòa giải hoặc trọng tài theo Cơ chế bổ trợ này liên quan đến những tranh chấp hiện hành hoặc trong tương lai cần phải được sự chấp thuận của Tổng Thư ký. Các bên có thể nạp đơn yêu cầu sự phê chuẩn đó vào bất kỳ lúc nào trước khi khởi kiện vụ việc thông qua việc gửi cho Ban Thư ký một bản sao thỏa thuận đã được ký kết hoặc dự định sẽ được ký kết giữa các bên cùng với những tài liệu liên quan và những thông tin bổ sung mà Ban Thư ký có thể yêu cầu.
(2) Trong trường hợp có đơn yêu cầu theo Ðiều 2 (a) thì Tổng Thư ký sẽ chấp thuận chỉ khi:
(a) Tổng Thư ký cho rằng các điều kiện của điều khoản đó đã được đáp ứng đầy đủ tại thời điểm đó, và
(b) hai bên đồng ý về thẩm quyền của Trung tâm theo Ðiều 25 của Công ước (thay vì Biện pháp Bổ sung) trong trường hợp các yêu cầu về thẩm quyền về mặt đối tượng chủ thể theo Ðiều đó sẽ được đáp ứng tại thời điểm khi tiến trình tố tụng đã được bắt đầu.
(3) Trong trường hợp có đơn yêu cầu theo Ðiều 2 (b) thì Tổng Thư ký sẽ chấp thuận chỉ khi
(a) Tổng Thư ký cho rằng các điều kiện của điều khoản đó đã được đáp ứng đầy đủ, và
(b) Những giao dịch đó có những điểm khác so với những giao dịch thương mại thông thường.