Chỉ thị 84-TTg năm 1993 về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ ban hành
Số hiệu | 84-TTg |
Ngày ban hành | 04/03/1993 |
Ngày có hiệu lực | 19/03/1993 |
Loại văn bản | Chỉ thị |
Cơ quan ban hành | Thủ tướng Chính phủ |
Người ký | Phan Văn Khải |
Lĩnh vực | Doanh nghiệp |
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 84-TTg |
Hà Nội, ngày 04 tháng 3 năm 1993 |
Quyết định số 202-CT ngày 8-6-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) về việc tiếp tục làm thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần đã ban hành hơn 8 tháng, nhưng việc tiến hành còn quá chậm, không thực hiện được những yêu cầu và tiến độ đã quy định. Nguyên nhân chính của các chậm trễ này là do các Bộ chức năng chưa kịp thời hướng dẫn, cụ thể hoá những quy định của Quyết định số 202-CT; các Bộ quản lý các đơn vị sản xuất, kinh doanh, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chưa quán triệt sâu sắc về quan điểm, nội dung cổ phần hoá và chưa quan tâm đúng mức chỉ đạo việc triển khai thực hiện công tác này. Mặc khác, việc cổ phần hoá chưa kết hợp chặt chẽ với việc sắp xếp lại doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp đang gặp khó khăn, trong chỉ đạo thiên về giải thể doanh nghiệp hơn là tìm các hình thức xử lý thích hợp về đa dạng hoá các hình thức sở hữu doanh nghiệp.
Để triển khai và tiến hành có kết quả việc thí điểm cổ phần hoá theo quyết định số 202-CT và tạo điều kiện để các doanh nghiệp Nhà nước đang gặp khó khăn có thể ổn định và tiếp tục phát triển, Thủ tướng Chính phủ quy định một số điểm cụ thể dưới đây:
Phải rất chú trọng mục tiêu về chuyển hình thức sở hữu Nhà nước thành hình thức sở hữu của các cổ đông, tạo ra sự thay đổi căn bản về phương thức quản lý để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Trong định hướng thay đổi về cơ cấu nền kinh tế và tổ chức lại khu vực kinh tế quốc doanh, Nhà nước chỉ giữ lại những doanh nghiệp lớn, quan trọng và những doanh nghiệp thuộc những ngành có vị trí then chốt của nền kinh tế quốc dân, để làm chức năng chi phối và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, các lĩnh vực thuộc Quốc phòng, an ninh và khu vực tạo nên kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp một số dịch vụ công cộng phúc lợi xã hội thiết yếu mà Nhà nước phải đảm nhận. Ngoài những doanh nghiệp Nhà nước thuộc các lĩnh vực trên, Nhà nước cho phép phát triển đa dạng hoá các hình thức sở hữu, trong đó, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước hiện có một giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội.
Các mục tiêu của cổ phần hoá đã được nêu trong Quyết định số 202-CT đều được coi trọng trong một thể thống nhất, bổ trợ cho nhau, về mục tiêu huy động vốn phải chú ý các hình thức: đối với những doanh nghiệp đang mắc nợ có thể chuyển nợ thành vốn cổ phần, hay chuyển nợ của Nhà nước thành nợ của các cổ đông; hoặc thu một phần hay toàn bộ vốn về ngân sách Nhà nước; hoặc huy động vốn để đầu tư chiều sâu, mở rộng doanh nghiệp.
II. VỀ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH TRONG VIỆC CỔ PHẦN HOÁ.
1. Các doanh nghiệp tiến hành thí điểm cổ phần hoá được phép cho cán bộ, công nhân viên của doanh nghiệp vay không phải trả lãi với thời hạn tối đa không quá 5 năm dưới hình thức bán chịu cổ phiếu trả chậm với mức bình quân không quá 3 triệu đồng/người và mức cao nhất không quá 5 triệu đồng/người tuỳ theo mức lương và thâm niên công tác. Những cổ phiếu này, người lao động được hưởng lợi tức cổ phần hàng năm, được quyền thừa kế, nhưng không được chuyển nhượng, không được rút vốn khi chưa trả hết tiền mua chịu cổ phiếu. Đối tượng được hưởng là cán bộ, công nhân, viên chức trong biên chế của doanh nghiệp tính đến thời điểm cổ phần hoá và những cán bộ, công nhân, viên chức của doanh nghiệp đang nghỉ hưu, mất sức.
Trong những trường hợp cụ thể, để khuyến khích cán bộ, công nhân viên của doanh nghiệp mua cổ phiếu bằng tiền mặt, giao cho bộ trưởng Bộ Tài Chính và Bộ trưởng Bộ chủ quản quyết định mức mua chịu cổ phiếu trả chậm trong 5 năm với lãi suất ưu đãi tương đương với tỷ lệ (%) thu về sử dụng vốn hàng năm; mức mua chịu tối đa của loại này không vượt quá số cổ phiếu mua bằng tiền mặt.
2. Đất đai mà doanh nghiệp đang sử dụng thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, doanh nghiệp chỉ có quyền sử dụng. Khi tiến hành cổ phần hoá, không tính giá trị đất vào giá trị doanh nghiệp mà tính vào chi phí, thu lần đầu về tiền cấp giấy quyền sử dụng đất và tiền sử dụng mặt bằng đất (có liên quan đến việc đền bù, giải phóng mặt bằng...). Sau đó hàng năm doanh nghiệp nộp tiền thuê đất theo Luật Đầu tư (nếu có bán cổ phần cho người nước ngoài) hoặc nộp thuế đất (nếu chỉ bán cổ phần cho người trong nước).
3. Cho phép các doanh nghiệp được tự xử lý số dư quỹ phúc lợi và khen thưởng (bằng tiền) trước khi cổ phần hoá, khuyến khích việc chia cho cán bộ, công nhân viên để mua cổ phiếu. Riêng đối với quỹ phúc lợi dưới dạng các công trình như nhà văn hoá, câu lạc bộ, bệnh xá, nhà điều dưỡng v. v... vẫn được duy trì và phát triển lên để bảo đảm phúc lợi chung của doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá.
4. Trong trường hợp cụ thể, nếu có khó khăn trong kinh doanh, doanh nghiệp thí điểm cổ phần hoá có thể được xét giảm thuế lợi tức không quá 50% trong 2 năm kể từ khi cổ phần hoá.
5. Phải giải quyết thoả đáng chính sách lao động, chính sách xã hội đối với người lao động khi tiến hành cổ phần hoá. Trước khi cổ phẩn hoá các đối tượng thuộc diện nghỉ hưu, mất sức, thôi việc được giải quyết theo chế độ hiện hành. Những người lao động tiếp tục làm việc ở Công ty cổ phần; Bộ lao động - Thương binh và xã hội cấp sổ bảo hiểm xã hội cho tất cả công nhân viên đã ký hợp đồng lao động. Thời gian làm việc trong doanh nghiệp Nhà nước trước đây được bảo lưu làm cơ sở để tính chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của Nhà nước.
6. Cho phép làm thí điểm việc bán cổ phần cho tổ chức và cá nhân nước ngoài. Bộ Tài chính cùng với Bộ chủ quản hoặc Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các Bộ có liên quan phải có những quy định hướng dẫn cụ thể, cân nhắc thận trọng và báo cáo Thủ tướng Chính phủ từng trường hợp cụ thể.
B. CÁC GIẢI PHÁP ĐA DẠNG HOÁ HÌNH THỨC SỞ HỮU ĐỂ ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT KINH DOANH
Đối với những doanh nghiệp Nhà nước hiện tại đang gặp khó khăn về sản xuất, kinh doanh, được phép chuyển đổi, hoặc đa dạng hoá hình thức sở hữu theo các giải pháp dưới đây:
1. Bán toàn bộ doanh nghiệp cho một hoặc một số tư nhân, tập thể để hình thành doanh nghiệp tư nhân hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn.
Giải pháp này chủ yếu áp dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ trong ngành thương nghiệp và các doanh nghiệp địa phương quận, huyện hiện đang có lãi hoặc lỗ tạm thời chưa đến mức phá sản. Việc xác định trị giá doanh nghiệp để bán được áp dụng như đối với trường hợp cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
2. Nhượng bán một phần vốn và tài sản của doanh nghiệp để hình thành các liên doanh giữa Nhà nước và tư nhân, tập thể (kể cả trong và ngoài nước) dưới hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn. Có thể kết hợp việc nhượng bán, hoặc củng cố doanh nghiệp Nhà nước hiện có với việc cho tư nhân, tập thể hùn vốn dưới hình thức cổ phần để đầu tư chiều sâu, mở rộng doanh nghiệp.
3. Ngoài ra, để hạn chế sự thất thoát vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước trong điều kiện hiện có, cho phép doanh nghiệp áp dụng các giải pháp dưới đây:
- Bán một phần máy móc, nhà xưởng để tập trung đầu tư vào bộ phận còn lại. Hình thức này được áp dụng đối với các doanh nghiệp có dư thừa thiết bị, nhà xưởng không cần dùng đến. Số tiền này được coi là vốn ngân sách Nhà nước đầu tư lại cho doanh nghiệp.
- Sáp nhập doanh nghiệp đang gặp khó khăn vào doanh nghiệp Nhà nước đang hoạt động tốt nhưng không làm suy yếu doanh nghiệp đang làm ăn tốt, nhằm tận dụng được cơ sở hiện có và giải quyết những khó khăn về công nghệ và tài chính của doanh nghiệp bị sáp nhập.
- Hợp đồng thuê toàn bộ doanh nghiệp hoặc cho thuê tài sản và phương tiện kinh doanh, chủ yếu áp dụng đối với loại hình doanh nghiệp nhỏ, kết cấu tài sản cố định và công nghệ giản đơn như các cửa hàng, cửa hiệu, kho, bãi chứa hàng...
- Hợp đồng khoán quản lý, áp dụng đối với các doanh nghiệp mà tình trạng khó khăn hiện tại chủ yếu do sự yếu kém về mặt tổ chức kinh doanh và quản trị doanh nghiệp.
4. Biện pháp cuối cùng là giải thể các doanh nghiệp thua lỗ lớn, mất khả năng thanh toán, có nguy cơ phá sản.