Chỉ thị 02/CT-BTC năm 2018 về tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính do Bộ Tài chính ban hành
Số hiệu | 02/CT-BTC |
Ngày ban hành | 03/07/2018 |
Ngày có hiệu lực | 03/07/2018 |
Loại văn bản | Chỉ thị |
Cơ quan ban hành | Bộ Tài chính |
Người ký | Đinh Tiến Dũng |
Lĩnh vực | Bộ máy hành chính,Tài chính nhà nước |
BỘ
TÀI CHÍNH |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 02/CT-BTC |
Hà Nội, ngày 03 tháng 7 năm 2018 |
Trong thời gian qua, thực hiện các nhiệm vụ của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ về cải cách hành chính (CCHC), cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, các đơn vị thuộc Bộ đã tích cực và có nhiều cố gắng trong việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác CCHC của Bộ Tài chính, qua đó đã đạt được những kết quả tích cực được xã hội, người dân và doanh nghiệp ghi nhận. Công tác xây dựng và hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) có những tiến bộ qua từng năm; nhiều văn bản QPPL trong các lĩnh vực tài chính được ban hành kịp thời đã tạo khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh đáp ứng yêu cầu cải cách. Công tác cải cách thủ tục hành chính (TTHC) được triển khai quyết liệt, nhiều thủ tục được loại bỏ, đơn giản hóa, cắt giảm thời gian thực hiện, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp góp phần cải thiện môi trường kinh doanh.
Tổ chức bộ máy của Bộ Tài chính được đổi mới, sắp xếp để phù hợp với yêu cầu quản lý; đội ngũ cán bộ công chức có năng lực, trình độ cơ bản đã đáp ứng yêu cầu thực thi nhiệm vụ; công tác tài chính công có nhiều cải cách trong việc huy động và phân bổ, sử dụng các nguồn lực tài chính, an ninh tài chính được đảm bảo; công tác hiện đại hóa ngành tài chính được coi trọng, từng bước được đầu tư trang bị, nâng cấp hiện đại hóa trang thiết bị để đáp ứng yêu cầu đổi mới, hiện đại hóa trong giải quyết TTHC và quản lý.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác CCHC vẫn còn nhiều hạn chế: Tính ổn định của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tài chính còn chưa cao, một số văn bản phải liên tục sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với sự biến động và phát triển của xã hội, tiến độ xây dựng chưa đảm bảo, tình trạng nợ đọng văn bản còn diễn ra; cải cách thủ tục hành chính còn chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết TTHC một số lĩnh vực vẫn còn hạn chế; bộ máy hành chính còn cồng kềnh; chất lượng đội ngũ công chức, viên chức còn chưa đồng đều, kỷ cương, kỷ luật hành chính nhiều nơi còn chưa nghiêm; quy mô thu ngân sách với tổng sản phẩm trong nước (GDP) giảm nhanh, cơ cấu thu chưa hợp lý, thiếu bền vững, thu không đủ chi, tích lũy cho đầu tư phát triển thấp, tỷ trọng chi thường xuyên cao, chi phát triển giảm; việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm; công tác hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng kiến trúc Chính phủ điện tử trong quản lý hành chính chưa đáp ứng yêu cầu cải cách đặt ra.
Nguyên nhân của hạn chế nêu trên gồm cả chủ quan và khách quan nhưng một trong những nguyên nhân chủ yếu là người đứng đầu đơn vị chưa coi trọng công tác CCHC; việc tổ chức thi hành các nhiệm vụ CCHC còn thiếu sự đồng bộ, toàn diện, trong phối hợp triển khai công việc còn thiếu sự kết nối, bổ trợ lẫn nhau giữa các đơn vị. Để khắc phục những hạn chế và đẩy mạnh triển khai công tác CCHC trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu hội nhập, phấn đấu các chỉ số cải cách đạt chuẩn xếp hạng các nước ASEAN 4 và hướng tới tiêu chuẩn của các nước OECD, Bộ trưởng Bộ Tài chính chỉ thị:
1. Tăng cường công tác chỉ đạo, nâng cao trách nhiệm người đứng đầu
Thủ trưởng đơn vị thuộc Bộ chịu trách nhiệm tổ chức hiệu quả các nhiệm vụ về CCHC được giao tại chương trình, kế hoạch hàng năm của Bộ và của đơn vị. Việc xây dựng kế hoạch phải đảm bảo chất lượng, cần được đầu tư nghiên cứu có tầm chiến lược; xác định rõ kết quả đối với từng nhiệm vụ cụ thể gắn với trách nhiệm của từng đơn vị, lãnh đạo đơn vị và công chức được giao nhiệm vụ, trên cơ sở đó thường xuyên đôn đốc, kiểm tra đánh giá kết quả thực hiện để chấn chỉnh kịp thời hạn chế, thiếu sót. Công tác CCHC phải được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên và liên tục của đơn vị. Kết quả đạt được hàng năm là cơ sở để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn, trách nhiệm thực thi công vụ của công chức, năng lực lãnh đạo điều hành của thủ trưởng đơn vị và là một trong các tiêu chí để bổ nhiệm cán bộ, đánh giá bình xét danh hiệu thi đua khen thưởng cho tập thể và cá nhân.
2. Phát huy tính sáng tạo, nâng cao chất lượng công tác xây dựng văn bản QPPL
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, chính sách, công tác dự báo, phân tích xu hướng và yêu cầu cải cách để tham mưu, đề xuất xây dựng, sửa đổi các chính sách pháp luật tài chính, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Công tác hoàn thiện thể chế, chính sách tài chính phải gắn với nhiệm vụ cải cách nhằm phát huy mọi nguồn lực, giải phóng sức sản xuất, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế. Cải cách thể chế hướng tới tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp đồng thời cũng phải đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước thông qua các cơ chế phối hợp, kiểm tra, giám sát, hậu kiểm.
Nhiệm vụ cải cách thể chế, xây dựng các văn bản chính sách phải được triển khai đồng bộ, gắn bó mật thiết với yêu cầu cải cách TTHC, tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả của bộ máy hành chính, hiện đại hóa hành chính.
- Về đề xuất, lập các chương trình xây dựng văn bản QPPL phải theo đúng quy trình, đảm bảo tiến độ và tính khả thi.
Các đề xuất chương trình xây dựng văn bản QPPL phải trên cơ sở đánh giá, tổng kết thực tiễn, đánh giá tác động đối với các văn bản QPPL có liên quan, đời sống kinh tế xã hội để trên cơ sở đó xác định rõ phạm vi điều chỉnh và các nội dung cơ bản của văn bản, dự kiến đủ thời gian cho công tác soạn thảo văn bản để hạn chế tối đa việc điều chỉnh chương trình.
Công tác thẩm định chương trình xây dựng văn bản QPPL phải được đổi mới về phương pháp, đẩy mạnh tổ chức phản biện và giải trình để làm rõ các vấn đề còn chưa rõ, chưa đủ cơ sở pháp lý để thực hiện; kiên quyết không đăng ký vào chương trình các văn bản chưa đảm bảo tính khả thi, chưa có cơ sở pháp lý rõ ràng, chưa có đánh giá tác động TTHC trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (đối với văn bản QPPL có quy định TTHC); chỉ đặt ra vấn đề điều chỉnh chương trình đối với những văn bản không bảo đảm tiến độ trình ký ban hành vì những lý do khách quan, bất khả kháng.
- Tổ chức soạn thảo văn bản QPPL theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định tại Luật Ban hành văn bản QPPL 2015 và Quy chế xây dựng văn bản QPPL của Bộ Tài chính.
Đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành văn bản QPPL; các văn bản QPPL quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh phải được ban hành kịp thời để có hiệu lực cùng với thời điểm có hiệu lực của luật, pháp lệnh.
3. Cải cách thủ tục hành chính, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm
Tiếp tục triển khai, đẩy mạnh công tác cải cách TTHC để tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Kiểm soát việc ban hành các TTHC mới, thực hiện nghiêm việc đánh giá tác động TTHC tại các văn bản QPPL theo quy định tại Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010 của Chính phủ về kiểm soát TTHC; Nghị định số 92/2017/NĐ-CP ngày 14/07/2017 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định liên quan đến kiểm soát TTHC.
Tiếp tục rà soát, kiến nghị cắt giảm, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính, trên cơ sở đó kiến nghị sửa đổi các văn bản QPPL. Thực hiện tốt việc công bố, công khai các quy trình, TTHC trong lĩnh vực tài chính. Tập trung phấn đấu giảm thời gian thực hiện TTHC trong lĩnh vực thuế, hải quan bằng hoặc vượt mức trung bình của các nước ASEAN-4 và hướng tới mục tiêu các nước OECD.
Nghiên cứu đổi mới cách thức giải quyết TTHC, đảm bảo thực hiện việc giải quyết TTHC đúng thời hạn; ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết TTHC; giải quyết kịp thời các vướng mắc trong quá trình thực hiện TTHC. Đẩy mạnh công tác kiểm tra việc thực hiện công tác kiểm soát TTHC tại các đơn vị, trong đó trọng tâm là kiểm tra việc thực hiện giải quyết TTHC.
4. Xây dựng bộ máy hành chính tinh gọn hiệu lực, hiệu quả
Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp để kiện toàn tổ chức bộ máy các đơn vị của Bộ Tài chính đảm bảo sự thống nhất trong triển khai các chức năng, nhiệm vụ theo hướng tinh gọn bộ máy, đảm bảo hoạt động hiệu lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu cải cách theo Kế hoạch hành động của Bộ Tài chính (ban hành theo Quyết định số 444/QĐ-BTC ngày 30/3/2018) trong việc thực hiện Nghị quyết 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn và Nghị quyết 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động các đơn vị sự nghiệp công lập. Tổ chức thực hiện Quyết định 444/QĐ-BTC ngày 30/3/2018 của Bộ Tài chính theo đúng yêu cầu, tiến độ đề ra.
Thực hiện tinh giản biên chế theo hướng thực chất đảm bảo đúng yêu cầu của Nghị quyết 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ công chức, viên chức. Có cơ chế đánh giá cán bộ phù hợp, đưa ra khỏi bộ máy những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, không đáp ứng yêu cầu công việc được giao. Tổ chức, sắp xếp, chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập theo đúng lộ trình, kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các đơn vị theo Nghị định 87/2017/NĐ-CP ngày 26/7/2017 của Chính phủ để trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc trình Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành theo thẩm quyền.
Kiện toàn đội ngũ công chức, viên chức đủ đức, đủ tài, đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý, đảm bảo trình độ chuyên môn cao, nâng cao chất lượng, năng lực cho cán bộ, công chức, viên chức ngành Tài chính nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách, theo đó tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau đây: