Báo cáo số 72/BC-UBND của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về tình hình soạn thảo, ban hành và kiểm tra xử lý văn bản quy phạm pháp luật năm 2008

Số hiệu 72/BC-UBND
Ngày ban hành 08/07/2009
Ngày có hiệu lực 08/07/2009
Loại văn bản Báo cáo
Cơ quan ban hành Thành phố Hồ Chí Minh
Người ký Nguyễn Thành Tài
Lĩnh vực Lĩnh vực khác

ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
--------

Số: 72/BC-UBND

TP. Hồ Chí Minh, ngày 08 tháng 7 năm 2009

 

BÁO CÁO

TÌNH HÌNH SOẠN THẢO, BAN HÀNH VÀ KIỂM TRA XỬ LÝ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT NĂM 2008

I. TÌNH HÌNH SOẠN THẢO, BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

1. Số lượng văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành:

Trong năm 2008 (từ ngày 01 tháng 01 đến ngày 31 tháng 12), Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành 137 văn bản quy phạm pháp luật (Xem Bảng A). Cụ thể:

- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố: 12 văn bản

- Quyết định của Ủy ban nhân dân thành phố: 102 văn bản

- Chỉ thị của Ủy ban nhân dân thành phố  : 23 văn bản

Ở các quận - huyện, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp quận, huyện ban hành 393 văn bản. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã - phường, thị trấn ban hành 1.083 văn bản.

2. Tình hình chấp hành pháp luật trong công tác soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật:

Căn cứ theo các quy định về trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân các cấp tại thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Quyết định số 2173/QĐ-UBND ngày 20 tháng 5 năm 2008. Với kế hoạch xây dựng, soạn thảo và ban hành 77 văn bản quy phạm pháp luật trong năm 2008, thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành 21 văn bản trong Chương trình (đạt 27% so với kế hoạch năm).

Nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật có phạm vi điều chỉnh rộng, ảnh hưởng đến đời sống, quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn thành phố. Đa số các cơ quan soạn thảo tuân thủ các quy định về công tác soạn thảo, lấy ý kiến đối tượng điều chỉnh, lấy ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức có liên quan; 53/137 (38,5%) văn bản có gửi Sở Tư pháp thành phố để thẩm định; 137/137 văn bản (100%) sau khi ban hành đã được gửi đăng Công báo, công bố trên trang tin điện tử Công báo thành phố, gửi Cục Kiểm tra văn bản Bộ Tư pháp, các Bộ, cơ quan ngang Bộ thuộc Chính phủ để thực hiện việc kiểm tra, giám sát theo thẩm quyền.

Tại các quận - huyện, quy trình soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được các đơn vị thực hiện ngày càng tốt hơn. Tuy nhiên, nhiều văn bản trước khi ban hành chưa được Phòng Tư pháp thẩm định và văn bản sau khi ban hành chưa được gửi đăng công báo, chưa gửi Sở Tư pháp thành phố để kiểm tra theo quy định. (thống kê cho thấy chỉ có 149/393- 38% văn bản do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân quận, huyện ban hành trong năm 2008 gửi đến Sở Tư pháp để kiểm tra).

Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp phường - xã, thị trấn, chủ yếu là ban hành các nghị quyết kỳ họp của hội đồng nhân dân về nhiệm vụ kế hoạch kinh tế - xã hội nên văn bản không chứa đựng nội dung quy phạm pháp luật.

3. Trong năm 2008, văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp tại thành phố ban hành đã kịp thời quyết định nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm thi hành các văn bản luật, văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên (như thi hành các nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 có người Việt Nam ở nước ngoài tham gia; thi hành Luật Thuế thu nhập cá nhân; về thí điểm thành lập lực lượng Thanh tra xây dựng; về tổ chức, sắp xếp lại các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân thành phố, thuộc Ủy ban nhân dân quận, huyện,v.v…); quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh tại địa phương; quy định một số biện pháp nhằm ổn định, nâng cao đời sống nhân dân.

II. TÌNH HÌNH KIỂM TRA, XỬ LÝ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

1. Về công tác tự kiểm tra

Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giao Sở Tư pháp thực hiện nhiệm vụ tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật ban hành; đồng thời phối hợp với các Sở - ngành tổ chức tự kiểm tra văn bản theo yêu cầu của các Bộ, ngành ở Trung ương. Trong đó, có 42 văn bản liên quan lĩnh vực quản lý của Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Xây dựng.

Qua công tác tự kiểm tra, thành phố Hồ Chí Minh xác định 02 văn bản có nội dung không phù hợp gồm:

- Quyết định số 21/2008/QĐ-UBND ngày 25 tháng 3 năm 2008 ban hành Quy định về quản lý dạy thêm, học thêm trên địa bàn thành phố. Văn bản này quy định thẩm quyền cấp phép dạy thêm không phù hợp với quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và hiện đang được các cơ quan chức năng xem xét, kiến nghị xử lý theo quy định.

- Quyết định số 100/2003/QĐ-UBND ngày 20 tháng 6 năm 2003 quy định bề mặt hạn chế chướng ngại vật tại cảng hàng không Tân Sơn Nhất. Văn bản này hiện không còn phù hợp với quy định của Luật Hàng không dân dụng về thẩm quyền ban hành. Do đó, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã có Công văn số 5162/UBND-PCNC ngày 14 tháng 8 năm 2008 kiến nghị Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý chướng ngại vật hàng không để làm cở sở quy định về giới hạn bề mặt chướng ngại vật tại các sân bay. Trong giai đoạn hiện nay, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục áp dụng Quyết định số 100/2003/QĐ-UBND để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho hoạt động bay tại sân bay Tân Sơn Nhất.

2. Về công tác kiểm tra theo thẩm quyền:

Theo báo cáo của Sở Tư pháp thành phố, trong năm 2008, Sở Tư pháp đã nhận được 149 văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân quận, huyện gửi đến để kiểm tra theo theo quy định. Qua kiểm tra, tuy không có các vi phạm về thẩm quyền hoặc nội dung trái pháp luật nhưng vẫn còn các sai sót về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản. Mặt khác, văn bản quy phạm pháp luật do cấp quận-huyện ban hành có chất lượng không cao. Cụ thể nhiều văn bản sao chép lại quy định của thành phố cũng như có nhiều nội dung cá biệt dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật.

3. Về một số nội dung khác:

a) Về tổ chức thí điểm tổng rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật theo yêu cầu của Bộ Tư pháp.

Nhằm phục vụ cho việc trình Chính phủ và Quốc hội quyết định triển khai tổng rà soát hệ thống pháp luật Việt Nam trên phạm vi cả nước theo yêu cầu của Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã có Kế hoạch tổ chức thí điểm tổng rà soát văn bản do các cấp chính quyền thành phố ban hành từ năm 1976 cho đến tháng 6 năm 2008. Sau khi kết thúc thí điểm, thành phố đã tiến hành tổng rà soát đối với 4.481 văn bản quy phạm pháp luật, xác định 2.010 văn bản hết hiệu lực; tiến hành bãi bỏ, công bố hết hiệu lực 896 văn bản. Cấp quận -huyện, phường - xã cũng đã thực hiện việc thu thập văn bản, tổ chức rà soát và xử lý các văn bản không còn phù hợp. Ủy ban nhân dân thành phố đã có báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp về kết quả đợt thí điểm tổng rà soát tại Báo cáo số 06/BC-UBND ngày 16 tháng 01 năm 2009.

b) Đề án xây dựng hệ cơ sở dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật

Trong năm 2008, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã hoàn thành Đề án xây dựng hệ cơ sở dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật phục vụ cho việc nâng cao năng lực công tác soạn thảo, ban hành văn bản, kiểm tra và xử lý văn bản. Hệ cơ sở dữ liệu bao gồm văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thành phố ban hành từ 1977 cho đến nay (với trên 4.500 văn bản). Việc đưa vào sử dụng Hệ cơ sở dữ liệu văn bản giúp văn bản sau khi ban hành được công bố đúng thời hạn quy định; văn bản được thường xuyên rà soát và cập nhật hiệu lực; phục vụ miễn phí cho mọi đối tượng có nhu cầu trong việc tra cứu, tìm kiếm thông tin về văn bản quy phạm pháp luật của thành phố. Hiện nay hệ cơ sở dữ liệu văn bản là một thành phần của Trang thông tin điện tử Công báo thành phố.

[...]
12
Quản lý: Công ty TNHH THƯ VIỆN NHÀ ĐẤT Giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp trên mạng số ..., do ... cấp ngày ... (dự kiến) Mã số thuế: 0318679464 Địa chỉ trụ sở: Số 15 Đường 32, Khu Vạn Phúc, P. Hiệp Bình Phước, TP. Thủ Đức, TP. HCM, Việt Nam Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ