Báo cáo 610/BC-CP về Tình hình, kết quả thực hiện kế hoạch đầu tư công năm 2024 và dự kiến kế hoạch đầu tư công năm 2025 do Chính phủ ban hành

Số hiệu 610/BC-CP
Ngày ban hành 05/10/2024
Ngày có hiệu lực 05/10/2024
Loại văn bản Báo cáo
Cơ quan ban hành Chính phủ
Người ký Nguyễn Chí Dũng
Lĩnh vực Đầu tư

CHÍNH PHỦ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 610/BC-CP

Hà Nội, ngày 05 tháng 10 năm 2024

 

BÁO CÁO

TÌNH HÌNH, KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH ĐẦU TƯ CÔNG NĂM 2024 VÀ DỰ KIẾN KẾ HOẠCH ĐẦU TƯ CÔNG NĂM 2025

Kính gửi: Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Căn cứ Luật Đầu tư công, Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tình hình, kết quả thực hiện kế hoạch đầu tư công năm 2024 và dự kiến kế hoạch đầu tư công năm 2025 như sau:

PHẦN THỨ NHẤT

TÌNH HÌNH, KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH ĐẦU TƯ CÔNG NĂM 2024

Năm 2024 là năm tăng tốc, bứt phá, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 -2025. Tình hình thế giới, khu vực tiếp tục biến động phức tạp, khó lường; nhiều yếu tố rủi ro, bất định, khó khăn, thách thức. Cạnh tranh chiến lược nước lớn ngày càng gay gắt; xung đột quân sự tiếp tục kéo dài, leo thang tại một số khu vực. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu phục hồi chậm, thiếu vững chắc. Thị trường tài chính, tiền tệ, giá vàng, xăng dầu, hàng hóa, vận tải thế giới biến động mạnh... Thiên tai, hạn hán, bão lũ, biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng, tác động nặng nề hơn.

Trong nước, nền kinh tế phục hồi rõ nét, tháng sau tích cực hơn tháng trước, quý sau tốt hơn quý trước[1]. Tuy nhiên, Việt Nam là nền kinh tế đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi, có độ mờ cao, quy mô còn khiêm tốn, khả năng chống chịu còn hạn chế, vừa phải thích ứng với tình hình bên ngoài, vừa phải giải quyết các vấn đề nội tại, tập trung cải thiện, củng cố các yếu tố nền tảng, làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống và phát triển các động lực mới; ứng phó thường xuyên với thiên tai, bão lũ, hạn hán...

Trong bối cảnh đó, việc thực hiện có hiệu quả kế hoạch đầu tư công năm 2024 có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng, góp phần khơi thông điểm nghẽn, đưa dòng vốn đầu tư công vào nền kinh tế, hoàn thiện kết cấu hạ tầng, tạo động lực, không gian phát triển mới, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, là một trong những động lực chính để thúc đẩy tăng trưởng cho nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho phục hồi nhanh và phát triển bền vững.

Tuy còn nhiều khó khăn nhất định, song dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự giám sát và đồng hành của Quốc hội, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, đồng bộ, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự nỗ lực, quyết tâm của các cấp, các ngành, kế hoạch đầu tư công năm 2024 đã đạt được một số kết quả tích cực, rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm để xây dựng và triển khai tốt hơn Kế hoạch đầu tư công các năm tiếp theo nhằm đạt mục tiêu của Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 đã được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XV.

I. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH, KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH ĐẦU TƯ CÔNG NĂM 2024:

Tại Kỳ họp thứ sáu Quốc hội khoá XV đã thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước (NSNN) và phân bổ ngân sách trung ương (NSTW) năm 2024[2]. Căn cứ các Nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Quyết định giao dự toán NSNN, kế hoạch đầu tư công nguồn NSNN năm 2024 cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương. Trên cơ sở đó, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã nghiêm túc, khẩn trương thực hiện phân bổ kế hoạch đầu tư công nguồn NSNN năm 2024 cho các nhiệm vụ, dự án thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 được cấp có thẩm quyền giao để triển khai, đồng thời giám sát việc thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công trong phạm vi quản lý.

Triển khai các Nghị quyết nêu trên của Quốc hội, ngay từ đầu năm, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 05/01/2024 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2024. Trong đó, việc giải ngân vốn đầu tư công được coi là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, để các cấp, các ngành, địa phương tập trung để tổ chức triển khai thực hiện. Đến nay, trên cơ sở báo cáo của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương về tình hình thực hiện 09 tháng đầu năm 2024 và dự báo những tháng cuối năm, Chính phủ báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư công nguồn NSNN năm 2024 như sau:

1. Kết quả phân bổ Kế hoạch đầu tư công nguồn NSNN 09 tháng đầu năm 2024:

a) Tổng kế hoạch đầu tư công vốn NSNN năm 2024 được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết nghị phân bổ cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương[3] là 677.944,639 tỷ đồng[4], bao gồm: vốn NSTW là 245.595,739 tỷ đồng (trong đó: vốn trong nước là 225.595,739 tỷ đồng, vốn nước ngoài là 20.000 tỷ đồng), vốn ngân sách địa phương (NSĐP) là 432.348,9 tỷ đồng.

Căn cứ quy định Luật Đầu tư công, Nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã giao[5] 677.944,639 tỷ đồng kế hoạch đầu tư vốn NSNN năm 2024 cho các bộ, cơ quan trung ương, đạt tỷ lệ 100% kế hoạch vốn năm 2024 đã được Quốc hội phân bổ.

b) Tình hình phân bổ, giao kế hoạch chi tiết cho các nhiệm vụ, dự án tại các bộ, cơ quan trung ương và địa phương

Đến ngày 30/9/2024, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã phân bổ, giao kế hoạch đầu tư vốn năm 2024 chi tiết cho danh mục nhiệm vụ, dự án là 665.199,94 tỷ đồng, đạt 98,1% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, bao gồm: vốn NSTW là 239.941,028 tỷ đồng, đạt 97,7% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, vốn NSĐP là 425.258,911 tỷ đồng, đạt 98,4% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao.

Số vốn còn lại chưa phân bổ chi tiết là 12.744,699 tỷ đồng (chiếm 1,9% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao), bao gồm: vốn NTSW là 5.654,711 tỷ đồng, (Vốn trong nước là 3.644,046 tỷ đồng[6] và vốn nước ngoài là 2.010,664 tỷ đồng[7]) của 17/44 bộ, cơ quan trung ương và 16/63 địa phương[8], vốn cân đối NSĐP là 7.089,989 tỷ đồng của 06/63 địa phương[9].

c) Nguyên nhân các bộ, cơ quan trung ương, địa phương chưa phân bổ chi tiết 100% kế hoạch đầu tư vốn NSNN năm 2024 cho các nhiệm vụ, dự án:

- Đối với vốn NSTW: (i) Vốn trong nước chưa phân bổ chi tiết chủ yếu là do các dự án khởi công mới, chưa hoàn thiện thủ tục đầu tư theo quy định để đủ điều kiện giao kế hoạch vốn hằng năm[10]; vốn giao cho các dự án thuộc 03 Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) đang gặp khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện[11]; vốn giao cho các dự án mới được Thủ tướng Chính phủ quyết định điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025[12]; các dự án đang rà soát, điều chỉnh nội dung đầu tư theo quy định[13]; các dự án thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội không còn nhu cầu bố trí kế hoạch vốn năm 2024 do đã được bố trí vốn từ nguồn kế hoạch năm 2023 được kéo dài sang năm 2024 theo Nghị quyết số 110/2023/QH15 của Quốc hội; (ii) vốn nước ngoài chưa phân bổ hết do: chưa hoàn thành thủ tục đầu tư theo quy định[14]; vướng mắc trong công tác thẩm định giá thiết bị, cơ chế đấu thầu dự án[15]...

- Đối với vốn NSĐP: các dự án dự kiến khởi công mới năm 2024 chưa hoàn thiện thủ tục đầu tư; nguồn chi đầu tư từ nguồn thu sử dụng đất, thu xổ số kiến thiết phụ thuộc vào tình hình thu thực tế nên nhiều địa phương bị hụt từ các nguồn này, do đó chưa thể thực hiện phân bổ chi tiết 100% số vốn NSĐP đã được Thủ tướng Chính phủ giao...

2. Tình hình giải ngân Kế hoạch đầu tư công nguồn NSNN 09 tháng đầu năm 2024:

Ước thanh toán từ đầu năm đến ngày 30/9/2024 là 320.566,522 tỷ đồng, đạt 47,29% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, cùng kỳ năm 2023 đạt 51,38%, trong đó: vốn trong nước là 315.699,658 tỷ đồng (đạt 47,98% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao[16]), vốn nước ngoài là 4.866,864 tỷ đồng (đạt 24,33% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao[17]). Trong đó CTMTQG là 15.054,1 tỷ đồng (đạt 55,31% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao).

a) Tính theo tỷ lệ giải ngân

- Có 08 bộ, cơ quan trung ương và 27 địa phương có tỷ lệ giải ngân cao (trên 55% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao), bao gồm: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Đài Tiếng nói Việt Nam; Đài Truyền hình Việt Nam; Trung ương Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Ngân hàng Chính sách xã hội; Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam; Yên Bái; Thái Nguyên; Phú Thọ; Hòa Bình; Thành phố Hải Phòng; Vĩnh Phúc; Hà Nam; Nam Định; Thái Bình; Thanh Hóa; Nghệ An; Hà Tĩnh; Thừa Thiên Huế; Bình Định; Ninh Thuận; Đắk Lắk; Tây Ninh; Bà Rịa Vũng Tàu; Long An; Tiền Giang; Bến Tre; Trà Vinh; Hậu Giang; An Giang; Đồng Tháp.

- Tuy nhiên, vẫn còn có 31 bộ, cơ quan trung ương và 23 địa phương có tỷ lệ giải ngân 09 tháng đầu năm 2024 dưới mức trung bình của cả nước (47,29%), bao gồm: Văn phòng Trung ương Đảng; Tòa án nhân dân tối cao; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Bộ Ngoại giao; Bộ Tư pháp; Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Tài chính; Bộ Khoa học và Công nghệ; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Y tế; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Bộ Tài nguyên và Môi trường; Ủy ban Dân tộc; Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh; Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Thông tấn xã Việt Nam; Kiểm toán Nhà nước; Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Tổng liên đoàn lao động Việt Nam; Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Hội Nông dân Việt Nam; Đại học Quốc gia Hà Nội; Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; Ban Quản lý Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam; Liên minh Hợp tác xã Việt Nam; Ban quản lý Khu công nghệ cao Hòa Lạc; Hà Giang; Cao Bằng; Lai Châu; Hải Dương; Quảng Nam; Quảng Ngãi; Phú Yên; Khánh Hòa; Kon Tum; Đồng Nai; Thành phố Cần Thơ; Sóc Trăng; Bạc Liêu; Cà Mau.

b) Tính theo phân cấp đầu tư, tỷ lệ giải ngân kế hoạch đầu tư vốn NSNN năm 2024 của khối bộ, cơ quan trung ương cao hơn khối địa phương. Tỷ lệ giải ngân trung bình của khối bộ, cơ quan trung ương là 51,58%; khối địa phương là 46,33% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao. Trong đó, nổi bật là Đài Truyền hình Việt Nam (100%); Ngân hàng Chính sách xã hội (100%); Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam (98,22%); Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (75,23%); Trung ương Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (70,46%); Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (63,12%); Đài Tiếng nói Việt Nam (60,72%); Bộ Giao thông vận tải (57,68%); các địa phương: Hòa Bình (95,95%); Bà Rịa Vũng Tàu (93,75%); Nam Định (93,59%); Long An (89,59%); Hà Tĩnh (78,50%); Lào Cai (75,30%).

[...]