Báo cáo 256/BC-CP năm 2013 kiểm điểm sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ 6 tháng đầu năm

Số hiệu 256/BC-CP
Ngày ban hành 10/07/2013
Ngày có hiệu lực 10/07/2013
Loại văn bản Báo cáo
Cơ quan ban hành Chính phủ
Người ký ***
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

CHÍNH PHỦ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 256/BC-CP

Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2013

 

BÁO CÁO

KIỂM ĐIỂM SỰ CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CỦA CHÍNH PHỦ 6 THÁNG ĐẦU NĂM

Thực hiện Quy chế làm việc của Chính phủ, các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tiến hành kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành theo chức năng, nhiệm vụ được phân công và việc tham gia công việc chung của Chính phủ. Báo cáo này tập trung kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong 6 tháng đầu năm như sau:

1. Về nhiệm vụ chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, đối ngoại theo Nghị quyết của Đảng, Quốc hội

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ tập trung chỉ đạo triển khai mục tiêu, nhiệm vụ năm 2013 theo Nghị quyết của Quốc hội là: Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô; lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn năm 2012. Đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đi mô hình tăng trưởng. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng cường quốc phòng, an ninh và bảo đảm ổn định chính trị - xã hội. Tạo nền tảng phát trin vững chắc hơn cho những năm tiếp theo. Ngay từ đu năm, Chính phủ đã sớm ban hành Nghị quyết vnhững giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013, Nghị quyết chuyên đề về một sgiải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt và chỉ đạo khn trương triển khai Đán tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng1. Trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện, hàng tháng, hàng quý đu có kiểm điểm đánh giá mặt được, chưa được và kịp thời điều chỉnh, bổ sung.

Đến ngày 30/6, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 10.782 văn bản2 chỉ đạo, điều hành trên các lĩnh vực. Hầu hết các bộ, cơ quan kịp thời ban hành chương trình, kế hoạch hành động, tích cực tham mưu và ban hành văn bản theo thm quyền để hướng dẫn, tổ chức thực hiện theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Chính phủ đã chuẩn bị và trình Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư 18 đán, báo cáo; chỉ đạo xây dựng các chương trình hành động, kế hoạch thực hiện các Nghị quyết, Kết luận của các Hội nghị Trung ương. Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội 28 báo cáo, tờ trình; 14 dự án Luật, Pháp lệnh. Lãnh đạo Chính phủ và các Thành viên Chính phủ đã báo cáo, giải trình nghiêm túc về những vấn đề liên quan đến chỉ đạo, điều hành theo yêu cầu của Quốc hội và đại biểu Quốc hội3.

Các Nghị quyết của Trung ương Đảng, Quốc hội, Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội được Chính phủ triển khai nghiêm túc với quyết tâm cao. Các bộ, ngành, địa phương đã bám sát mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ để xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể phù hp với chức năng, nhiệm vụ và tình hình thực tế. Với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại 6 tháng đầu năm đã có những chuyển biến tích cực, đúng hướng, đạt được mục tiêu đề ra. Bên cạnh đó, tình hình kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn đòi hỏi phải tiếp tục kiên định mục tiêu đồng thời có các giải pháp tháo gỡ kịp thời trong 6 tháng cuối năm.

2. Về xây dựng và lãnh đạo bộ máy hành chính nhà nước

Chính phủ đã tập trung chỉ đạo kiện toàn, hoàn thiện chức năng nhiệm vụ ca các bộ, cơ quan ngang bộ gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước trong từng lĩnh vực4. Đã tổng kết bước 2 thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường; xây dựng đề án thí điểm mô hình tổ chức chính quyền đô thị báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Chđạo các ngành, các cấp tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý và đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ khoa học, cán bộ là người dân tộc thiểu số. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về quản lý cán bộ, công chức và viên chức theo quy định của Luật Cán bộ công chức, Luật Viên chức, pháp luật phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Tuy nhiên, công tác xây dựng bộ máy vẫn còn nhiều hạn chế. Việc xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ, cơ quan còn quá chậm so với kế hoạch. Đến nay mới có 14/19 Nghị định được ban hành. Tình trạng này có phần do nhiệm vụ quản lý nhà nước giữa bộ, ngành vẫn còn một số điểm khó phân định rạch ròi trong khi cơ chế phối hợp chưa thực sự hiệu quả và cũng có phần do một số bộ đề nghị thành lập thêm nhiều Cục, Vụ. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn tới việc sửa đổi, bổ sung quy định về tổ chức cơ quan chuyên môn cp tỉnh, cấp huyện chậm. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức vẫn còn tình trạng vừa thừa, vừa thiếu. Chất lượng công vụ chưa cao, tham mưu chính sách còn hạn chế. Một bộ phận cán bộ, công chức sa sút phẩm chất, quan liêu, cửa quyền, vô cảm, nhũng nhiễu... Ở không ít nơi, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm thậm chí buông lỏng. Những bất cập trong bố trí, sử dụng, đánh giá đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật chậm được khc phục.

Sự thống nhất quản lý hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương theo quy định của Hiến pháp và pháp luật được bảo đảm. Các nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân được triển khai thực hiện đồng bộ. Thủ tướng Chính phủ và các Thành viên Chính phủ dành nhiều thời gian làm việc với bộ, cơ quan, địa phương, cơ sở để kiểm tra, đôn đốc thực hiện chủ trương, chính sách, nhiệm vụ, kế hoạch đã đề ra, đặc biệt quan tâm tháo gỡ khó khăn, giải quyết các kiến nghị của địa phương5.

Tuy nhiên hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính vẫn còn hạn chế. Nhiều cơ chế, chính sách được ban hành, nhưng việc tổ chức triển khai thực hiện chậm, nhất là những cơ chế chính sách mới liên quan tới tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng. Chỉ đạo, điều hành ở các ngành, các cấp nhìn chung còn nặng về các giải pháp tình thế, chưa thật gắn kết với việc thực hiện các nhiệm vụ chiến lược, dài hạn.

Trong thời gian tới cần khẩn trương ban hành các Nghị định về chức năng, nhiệm vụ các Bộ, các Nghị định quy định về cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, cp huyện. Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương; đồng thời bảo đảm sự quản lý thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Tập trung xây dựng và ban hành văn bản quy định chi tiết Luật Cán bộ, công chức, Tiếp tục thực hiện thí điểm đưa đội ngũ trí thức trẻ về làm cán bộ ở những địa bàn khó khăn. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng Đán tinh giản biên chế trình Ban Bí thư và các Đề án về chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn và chính sách đối với cán bộ về công tác tại địa bàn khó khăn.

3. Về công tác xây dựng thể chế; xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch

Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong công tác xây dựng thể chế. Đã chỉ đạo thực hiện việc tổng kết thi hành và tổ chức lấy ý kiến nhân dân và toàn bộ hệ thống hành chính nhà nước về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; báo cáo, đề xuất với Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp6, Xây dựng, trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và 14 dự án luật, pháp lệnh (tăng 3 dự án so cùng kỳ, đạt 63,6% chương trình chính thức năm 2013). Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 69 nghị định, 40 quyết định quy phạm pháp luật (tăng 14 nghị định, 12 quyết định quy phạm pháp luật so cùng kỳ năm trước). Các dự án luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định quy phạm pháp luật được chuẩn bị đúng trình tự, thủ tục và cơ bản bảo đảm tiến độ. So với 6 tháng đu năm các năm trước, tình trạng xin rút, lùi tiến độ đã được khc phục một bước.

Chính phủ đã tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật; tchức họp Chính phủ chuyên đề vxây dựng pháp luật; các cơ quan chủ trì soạn thảo chú trọng hơn khâu đánh giá hiệu quả tác động của chính sách và tiếp thu ý kiến của các cơ quan, đoàn thể, hiệp hội, doanh nghiệp và nhân dân. Đã kịp thời điều chnh, sửa đổi, bãi bỏ, thay thế những quy định thiếu tính khả thi, chưa phù hợp, từng gây bức xúc trong dư luận xã hội.

Tuy nhiên một số dự án luật, pháp lệnh chuẩn bị không đảm bảo tiến độ, ảnh hưởng đến chương trình công tác của Quốc hội, Chính phủ. Chất lượng một số dự án, dự thảo chưa đạt yêu cầu. Việc xây dựng và ban hành văn bản quy định chi tiết các luật đã có hiệu lực còn rất chậm. Trong 6 tháng đầu năm, cần phải ban hành 132 văn bản quy định chi tiết thi hành đối với 29 luật, pháp lệnh. Tuy nhiên đến ngày 30/6 mới ban hành được 19 văn bản, còn nợ 56 văn bản quy định chi tiết của 23 luật, pháp lệnh đã có hiệu lực và chưa ban hành kịp thời 57 văn bản quy định chi tiết của Luật xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2013.

Những hạn chế trên có một phần do nhiệm vụ xây dựng thể chế đặt ra rất nặng nề; số lượng các văn bản quy định chi tiết, nhất là đối với Luật xử lý vi phạm hành chính nhiều (ngoài chương trình chính thức Quốc hội đã thông qua, phải bổ sung 10 dự án luật, pháp lệnh vào chương trình năm 2013). Mặt khác, chất lượng đội ngũ công chức làm công tác xây dựng thể chế còn bất cập, chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn; công tác nghiên cứu, phân tích, đánh giá tác động của chính sách chưa thực sự thu hút được sự quan tâm của các chuyên gia, các nhà khoa học, nhân dân, nhất là những đối tượng chịu sự tác động của chính sách.

Trong thời gian tới, cần tập trung đẩy nhanh tiến độ, nâng chất lượng xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật. Tiếp tục tổ chức và nâng cao hiệu quả các phiên họp chuyên đề về pháp luật. Đối với các văn bản có yêu cầu cấp bách cần áp dụng thủ tục rút gọn trong xây dựng và trình ban hành. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong đôn đốc, kiểm tra, theo dõi tình hình xây dựng thể chế và thẩm đnh, thẩm tra văn bản. Tăng cường phối hợp giữa cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan liên quan trong suốt quá trình nghiên cứu, soạn thảo, thông qua các dự án, văn bản quy phạm pháp luật.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã dành nhiều thời gian chỉ đạo công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển. Đến nay, hầu hết các ngành, lĩnh vực, các địa phương trên cả nước, các vùng kinh tế trọng điểm đều đã có chiến lược, quy hoạch phát triển. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng quy hoạch manh mún, chồng chéo, thiếu liên kết, thiếu đồng bộ; không ít quy hoạch còn nặng về hình thức, chất lượng thấp, thiếu nguồn lực thực hiện. Việc tổ chức thực hiện quy hoạch, quản lý quy hoạch chưa triệt để, còn có nơi tùy tiện, buông lỏng, không bám sát nội dung đã phê duyệt. Nguồn lực thực hiện quy hoạch, kế hoạch hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, chưa thu hút được sự tham gia của các nguồn lực xã hội.

Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo cần đề cao hơn nữa vai trò trách nhiệm của người đứng đầu các cấp trong việc xây dựng, thẩm định, tổ chức thực hiện, quản lý quy hoạch, kế hoạch. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chiến lược, quy hoạch. Rà soát, điều chỉnh các chiến lược, quy hoạch bảo đảm phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội cả nước, bảo đảm tính đồng bộ giữa hiệu quả trước mắt với hiệu quả lâu dài.

4. Về cải cách hành chính, tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính

Ngay từ đầu năm, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, cơ quan, địa phương tập trung thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước, xây dựng kế hoạch cải cách hành chính cho cả giai đoạn và năm 2013; kiện toàn công tác kiểm soát thủ tục hành chính, đẩy mạnh việc thực thi các phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân.

Chính phủ đã tăng cường chỉ đạo nâng cao kỷ cương, kỷ luật hành chính, đặc biệt là trong kim tra, đôn đốc thực hiện các nhiệm vụ, công việc đã giao. Đối với các cơ chế, chính sách quan trọng, Chính phủ phân công các Thành viên Chính phủ trực tiếp kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện, tháo gỡ vướng mắc. Các Thành viên Chính phủ đã dành thời gian nắm bắt và chỉ đạo tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho địa phương, cơ sở, kết hp đôn đốc, kiểm tra thực hiện các cơ chế, chính sách trong lĩnh vực ngành mình. Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng quy định và triển khai phần mềm theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, cập nhật và cung cấp thông tin liên quan đến tình hình thực hiện những công việc, nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao cho các bộ, cơ quan, địa phương. Nhiều bộ, cơ quan, địa phương cũng đã triển khai quy định này.

Tuy nhiên, công tác cải cách hành chính chuyển biến còn chậm, hiệu quả chưa cao, không ít hoạt động còn hình thức. Kế hoạch cải cách hành chính của một số bộ, cơ quan, địa phương chậm ban hành nên khó khăn trong việc tổ chức triển khai. Kỷ cương, kỷ luật hành chính, chấp hành sự chỉ đạo, điều hành không ít nơi chưa nghiêm. Còn nhiều công việc nêu trong các Chương trình hành động, Nghị quyết của Chính phủ, các Quyết định, Chỉ thị, văn bản chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng Chính phủ không được triển khai đúng tiến độ yêu cầu7. Việc hướng dẫn thực hiện chủ trương, chính sách đã được đề ra trong các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ về tháo gỡ vướng mắc khó khăn cho sản xuất, kinh doanh và thực hiện tái cơ cấu còn chậm. Công tác kiểm tra, đôn đốc thực hiện của một số bộ, cơ quan chưa được quan tâm đúng mức, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và cả hệ thống hành chính nhà nước.

Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo trong thời gian tới cần khẩn trương ban hành Đề án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính; các ngành, các cấp cần sát sao hơn nữa trong đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các công việc, nhiệm vụ đã giao. Thường xuyên chỉ đạo kiểm điểm tình hình, kết quả triển khai thực hiện chương trình công tác và các nhiệm vụ, công việc, trên cơ sở đó, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các cơ quan, của người đứng đu, xử lý nghiêm minh những trường hợp coi nhẹ, buông lỏng kỷ cương, kỷ luật hành chính.

5. Về phối hợp công tác với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể

[...]