Báo cáo 223/BC-UBND về tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội thành phố Hồ Chí Minh năm 2018, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm năm 2019

Số hiệu 223/BC-UBND
Ngày ban hành 28/12/2018
Ngày có hiệu lực 28/12/2018
Loại văn bản Báo cáo
Cơ quan ban hành Thành phố Hồ Chí Minh
Người ký Nguyễn Thành Phong
Lĩnh vực Thương mại,Văn hóa - Xã hội

ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 223/BC-UBND

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 12 năm 2018

 

BÁO CÁO

VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - VĂN HÓA - XÃ HỘI THÀNH PHỐ NĂM 2018, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM NĂM 2019

Phần thứ nhất

TÌNH HÌNH KINH TẾ - VĂN HÓA - XÃ HỘI THÀNH PHỐ NĂM 2018

I. VỀ KINH TẾ

1. Tổng sản phẩm nội địa GRDP:

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm 2018 ước đạt 1.331.440 tỷ đồng, ước tăng 8,3% (cùng kỳ tăng 8,25%). Trong đó: khu vực dịch vụ tăng 8,4%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,1%, khu vực nông nghiệp tăng 6,2%, thuê sản phẩm tăng 8,3%. về cơ cấu ngành trong GRDP, khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng 62,4%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng 22,9%, khu vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng 0,7%, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 14,1%.

Cơ cấu kinh tế thành phố tiếp tục tăng dần tỷ trọng các ngành dịch vụ chất lượng cao, giá trị gia tăng lớn, có lợi thế cạnh tranh là 9 nhóm ngành dịch vụ chủ yếu có tiềm năng và là thế mạnh của thành phố như thương mại, tài chính - ngân hàng - bảo hiểm, du lịch, thông tin truyền thông, vận tải - cảng - kho bãi, khoa học - công nghệ, kinh doanh bất động sản, giáo dục và y tế. Tỷ trọng 9 nhóm ngành dịch vụ chủ yếu chiếm tỷ trọng cao nhất 57,1% trong tổng GRDP. Trong đó, 3 nhóm ngành bất động sản; thương mại và vận tải kho bãi tiếp tục chiếm tỷ trọng cao 33,4% trong tổng GRDP.

Về tốc độ phát triển dịch vụ, một số ngành có mức tăng cao hơn so cùng kỳ: Thương mại tăng 9,5% (cùng kỳ tăng 9,4%); vận tải kho bãi tăng 8,5% (cùng kỳ tăng 6,8%); du lịch tăng 9,2% (cùng kỳ tăng 7,9%); bất động sản tăng 6,6% (cùng kỳ tăng 4,8%); khoa học công nghệ tăng 7,7% (cùng kỳ tăng 7,1%); y tế tăng 7,6% (cùng kỳ tăng 7,4%); giáo dục - đào tạo tăng 9,21 (cùng kỳ tăng 9,14); ngành thông tin và truyền thông tăng 7,5% (tương đương cùng kỳ). Riêng ngành tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,8% (cùng kỳ tăng 8,9%).

2. Lĩnh vực dịch vụ:

2.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ năm 2018 ước đạt 1.050.093 tỷ đồng, tăng 13,0% so cùng kỳ (cùng kỳ tăng 11,3%). Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường bán lẻ đang tạo cơ hội lớn cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và cung ứng trong nước đưa hàng vào kênh bán lẻ hiện đại với các sản phẩm phong phú, đa dạng, chất lượng và các chương trình khuyến mãi hấp dẫn diễn ra xuyên suốt các đợt nghỉ lễ trong năm tại các siêu thị đã góp phần tăng sức mua của người tiêu dùng.

2.2. Kim ngạch xuất - nhập khẩu:

- Xuất khẩu: Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp năm 2018 ước đạt 38,29 tỷ USD, tăng 7,5% so cùng kỳ (cùng kỳ tăng 16,1%). Nếu không tính giá trị dầu thô, kim ngạch ước đạt 35,8 tỷ USD, tăng 10,1% (cùng kỳ tăng 16,0%).

- Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2018 ước đạt 47,4 tỷ USD, tăng 8,8% so cùng kỳ (cùng kỳ tăng 13,6%). Ngành hàng nhập khẩu chủ yếu là trang thiết bị, nguyên vật liệu cho sản xuất như: Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng tăng 23,8%; chất dẻo nguyên liệu tăng 10,6%....

2.3. Hoạt động du lịch:

Ngành du lịch là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố; du lịch thành phố tiếp tục khẳng định vị thế là một trong những trung tâm du lịch hàng đầu của cả nước. Hoạt động quảng bá xúc tiến du lịch tiếp tục được đẩy mạnh thông qua các chương trình thường xuyên như: Lễ hội Áo dài, Lễ hội trái cây Nam bộ, Chương trình Thành phố Hồ Chí Minh - 100 điều thú vị, Ngày hội du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, Hội chợ Du lịch Quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh - ITE... Chất lượng các sự kiện, lễ hội du lịch được nâng cao, có đổi mới phương thức truyền thông quảng bá nên đã mang lại những kết quả tích cực, thu hút được đông đảo sự quan tâm của truyền thông, du khách và người dân thành phố.

Công tác phát triển sản phẩm du lịch tiếp tục được đẩy mạnh nhằm phát huy thế mạnh, tiềm năng của thành phố trên lĩnh vực du lịch MICE (du lịch kết hợp hội nghị, hội thảo, khen thưởng, sự kiện), du lịch ẩm thực, du lịch đường thủy, du lịch mua sắm, du lịch gắn với nông nghiệp và nông thôn mới, du lịch sinh thái, du lịch chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp. Đồng thời, thành phố đã triển khai ứng dụng công nghệ thông tin để phát triển ngành du lịch như cổng thông tin điện tử Sở Du lịch, trên mạng xã hội Youtube, Trạm Thông tin và hỗ trợ khách du lịch, Trạm thông tin du lịch...

Bên cạnh đó, thành phố đã tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động của Đội trật tự du lịch nhằm giải quyết tình trạng bán hàng rong và chèo kéo du khách ở khu vực trung tâm thành phố, đảm bảo an ninh, an toàn cho du khách, cải thiện môi trường góp phần xây dựng hình ảnh Thành phố Hồ Chí Minh thân thiện, hấp dẫn, an toàn. Tình trạng mua bán hàng rong, chèo kéo, số vụ cướp giật tài sản của du khách được kéo giảm đáng kể.

Trong năm 2018, tổng lượng khách quốc tế đến thành phố ước đạt 7,5 triệu lượt, tăng 17,38% so cùng kỳ (cùng kỳ tăng 22,8%) và đạt 100% kế hoạch năm (7,5 triệu lượt khách). Tổng lượng khách du lịch nội địa đến thành phố năm 2018 ước đạt 29 triệu lượt, tăng 16,07% so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng 12,6%) và đạt 100% kế hoạch năm (29 triệu lượt). Tổng doanh thu ngành du lịch (lữ hành, khách sạn nhà hàng) ước đạt 140.000 tỷ đồng, tăng 21,55% so cùng kỳ (cùng kỳ tăng 12,6%) và đạt 102% kế hoạch năm (138.000 tỷ đồng).

2.4. Bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin:

Doanh thu ngành bưu chính viễn thông ước tính đạt 34.726 tỷ đồng trong năm 2018, trong đó, doanh thu bưu chính ước đạt 7.912 tỷ đồng và doanh thu viễn thông ước đạt 26.813 tỷ đồng.

Tổng số thuê bao điện thoại cố định ước đạt 795.085 thuê bao. Tổng số thuê bao điện thoại di động ước đạt 17.065.884 thuê bao, trong đó số thuê bao điện thoại di động trả trước đạt 15.368.521 thuê bao, số thuê bao điện thoại di động trả sau đạt 1.697.363 thuê bao. Mật độ điện thoại là 198 máy/100 dân. Số thuê bao của dịch vụ điện thoại di động có xu hướng tăng do nhu cầu sử dụng SIM data tăng để kết nối internet với các thiết bị thông minh trong cuộc sống

Thuê bao Internet băng thông rộng ADSL đạt 40.768 thuê bao. Truy cập Internet bằng kênh thuê riêng (Leased-line) quy đổi ra tốc độ 64Kbps ước đạt 1.013.784/64Kbps. Truy cập Internet băng rộng di động (3G. 4G) đạt 7.893.393 thuê bao. Truy cập Internet qua hệ thống cáp đồng truyền hình là 391.342 thuê bao.

Số thuê bao băng rộng cố định và di động tiếp tục giữ mức tăng trưởng ổn định, nguyên nhân do nhu cầu truy cập Internet, định vị của người dân ngày càng tăng. Trong đó, xu hướng người tiêu dùng thích chọn sử dụng dịch vụ cáp quang FTTH và hệ thống truyền hình cáp cao hơn do tốc độ truyền tải dữ liệu tốt hơn. Số thuê bao băng rộng di động có xu hướng tăng do tính chất di động, tiện lợi của dịch vụ, song song đó là chất lượng dịch vụ 3G, 4G của các đơn vị thông tin di động đang được nâng cấp, hoàn thiện hơn.

2.5. Tín dụng - Ngân hàng, thị trường chứng khoán:

Năm 2018, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh thành phố đã tích cực triển khai hoạt động, tăng trưởng tín dụng, phát triển hệ thống thanh toán, đạt được nhiều kết quả tích cực, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội thành phố. Hoạt động ngân hàng đã đạt được những kết quả quan trọng sau:

- Thị trường tiền tệ ổn định, các yếu tố lãi suất, tỷ giá và giá vàng diễn biến phù hợp với quan hệ cung - cầu vốn, ngoại tệ trên thị trường và nền kinh tế. Lãi suất ổn định, mặt bằng lãi suất cho vay năm 2018 thấp hơn so với cuối năm 2017 khoảng 0,5 - 0,6%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VNĐ của 5 nhóm, lĩnh vực[1] không quá 6,5%/năm theo đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

- Hoạt động ngân hàng ổn định và tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá trong năm 2018, tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh của thành phố.

[...]