BỘ TƯ
PHÁP
--------
|
CỘNG HÒA
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
189/BC-BTP
|
Hà Nội,
ngày 22 tháng 7 năm 2016
|
BÁO
CÁO
KẾT
QUẢ CÔNG TÁC TƯ PHÁP 6 THÁNG ĐẦU NĂM VÀ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
CÔNG TÁC 6 THÁNG CUỐI NĂM 2016
Sáu tháng đầu năm
2016, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, sự nỗ lực của cả
hệ thống chính trị, tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục chuyển biến và đạt được
những kết quả tích cực. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát được kiểm soát;
lãi suất có xu hướng giảm; huy động vốn đầu tư phát triển đạt nhiều kết quả
tích cực; thu hút vốn FDI tăng cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước; phát
triển doanh nghiệp có bước chuyển biến tích cực; các lĩnh vực lao động, việc
làm, an sinh, phúc lợi xã hội được quan tâm và đạt nhiều kết quả; an ninh chính
trị và trật tự xã hội được bảo đảm;… Bên cạnh đó, trong bối cảnh tình hình thế
giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, tăng trưởng kinh tế toàn cầu có
tốc độ chậm lại, tình hình kinh tế - xã hội trong nước những tháng đầu năm còn
nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế phục hồi chậm; tốc độ tăng GDP 6 tháng đầu
năm thấp hơn so với cùng kỳ năm trước; lạm phát được kiểm soát nhưng vẫn tiềm
ẩn nhiều nguy cơ có khả năng tăng cao trở lại; tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu
đạt thấp hơn mục tiêu đề ra; việc phòng chống ô nhiễm, bảo vệ môi trường sinh
thái còn bộc lộ nhiều yếu kém; đời sống nhân dân ở các vùng thiên tai, hạn hán,
xâm nhập mặn, vùng bị ô nhiễm môi trường biển, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó
khăn…
Đối với công tác Tư
pháp, toàn Ngành đã tập trung thực hiện các nhiệm vụ, nhất là 11 nhóm nhiệm vụ
trọng tâm được nêu tại Báo cáo số 12/BC-BTP ngày 20/01/2016 của Bộ Tư pháp[1] và 10 nhóm nhiệm vụ chủ yếu
theo Chương trình hành động của Ngành Tư pháp[2]
thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07/01/2016 của Chính phủ. Báo cáo này tập
trung đánh giá việc triển khai các nhiệm vụ công tác tư pháp trong 6 tháng đầu
năm 2016, xác định những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân để từ đó đề xuất nhiệm
vụ trọng tâm, giải pháp chủ yếu công tác 6 tháng cuối năm 2016.
Phần thứ
nhất:
TÌNH
HÌNH CÔNG TÁC TƯ PHÁP 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2016
I. CÔNG
TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH
Sáu tháng đầu năm,
công tác chỉ đạo, điều hành của Bộ, Ngành bám sát với công tác chỉ đạo, điều
hành phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội, Chính phủ và chính quyền các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Các nhiệm vụ công tác tư pháp năm 2016
đã được Chính phủ quan tâm chỉ đạo, quy định trong Nghị quyết số 01/NQ-CP, tạo
cơ sở quan trọng cho sự thống nhất chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp một cách
toàn diện. Nhìn chung, các Bộ, ngành, địa phương đã kịp thời ban hành, phê
duyệt kế hoạch công tác tư pháp/pháp chế của cơ quan, địa phương.
- Chỉ đạo triển khai Nghị quyết
và các Văn kiện do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII: Việc triển
khai Nghị quyết và các Văn kiện do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII thông
qua được Ngành Tư pháp xác định là nhiệm vụ chính trị trọng tâm hàng đầu và
tích cực thực hiện. Nhiều tổ chức pháp chế, cơ quan tư pháp đã tham mưu cho Bộ,
ngành, địa phương chú trọng tuyên truyền, phổ biến và xây dựng các chương
trình, kế hoạch để từng bước cụ thể hóa các chủ trương, chính sách, định hướng
trong xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân,
vì Nhân dân; về chủ trương chuyển trọng tâm chiến lược từ xây dựng pháp luật sang
hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật được nêu trong Văn kiện (như: Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nội vụ, Bộ Xây dựng, Hà Nội,
Thanh Hóa, Long An...).
- Chỉ đạo tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu
HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021: Bộ, Ngành Tư pháp đã tích cực chỉ đạo và tổ chức
thực hiện các đợt cao điểm tuyên truyền phổ biến Luật bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đến các tầng lớp nhân dân, qua đó, góp phần
vào thành công chung của cuộc bầu cử vừa qua.
- Chỉ đạo các công
việc trọng tâm theo yêu cầu mới của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ: Toàn
Ngành đã kịp thời bám sát và hành động với quyết tâm cao nhất, kiên quyết đổi
mới theo phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ về xây dựng Chính phủ kiến
tạo, liêm chính và phục vụ nhân dân, trong đó trọng tâm là gỡ bỏ rào cản, hoàn
thiện thể chế để giải phóng các nguồn lực phát triển đất nước, kiên quyết loại
trừ các quy định pháp luật không rõ ràng, không minh bạch, có biểu hiện lợi ích
nhóm, cản trở phát triển, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và
đời sống nhân dân. Bộ Tư pháp đã kịp thời ban hành Chương trình hành động thực hiện
Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP, Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ (kèm theo
Quyết định số 1170/QĐ-BTP ngày 31/5/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp) với nhiều
nhiệm vụ, giải pháp để kịp thời hưởng ứng chủ trương của Chính phủ về cải thiện
môi trường kinh doanh, tạo điều kiện tối đa cho người dân, doanh nghiệp, nâng
cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Bộ Tư pháp cùng các
Bộ, ngành tham gia tích cực vào việc giải quyết các công việc chung của Chính
phủ; chủ động giải quyết công việc và phối hợp công tác; sâu sát cơ sở, chỉ đạo
giải quyết kịp thời các vấn đề vướng mắc, tháo gỡ khó khăn; kiểm tra, đôn đốc
việc thực hiện, đưa nhanh các chủ trương, chính sách pháp luật đi vào cuộc sống
và phát huy hiệu quả.
Cùng với đó, các Bộ,
ngành, địa phương đã tiếp tục quan tâm chỉ đạo kiện toàn tổ chức, bộ máy;
thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc triển khai công tác. Bộ Tư pháp
đã ban hành kế hoạch kiểm tra công tác trên các lĩnh vực: kiểm tra VBQPPL, xử
lý vi phạm hành chính, nuôi con nuôi, thi hành án dân sự, lý lịch tư pháp, đăng
ký giao dịch bảo đảm, bồi thường nhà nước, bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý...
Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành kế hoạch kiểm tra và chỉ
đạo Sở Tư pháp tăng cường kiểm tra công tác tư pháp ở cấp huyện, cấp xã; hướng
dẫn và tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, tồn tại trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ của các đơn vị cơ sở.
Bộ, Ngành Tư pháp đã
có bước đổi mới việc tổ chức họp, hội nghị, đáp ứng yêu cầu chỉ đạo, điều hành,
như: tăng cường hội nghị trực tuyến, qua đó giúp tiết kiệm được thời gian, kinh
phí, mở rộng thành phần dự họp; gửi, nhận tài liệu điện tử, góp phần cải tiến
phương thức làm việc theo hướng hành chính điện tử, bảo đảm sự liên thông, kịp thời
và tiết kiệm.
Đặc biệt, thực hiện
chủ trương nâng cao hiệu quả, chất lượng, giảm thiểu số lượng cuộc họp, các
chuyến công tác địa phương không cần thiết, Bộ Tư pháp đã ban hành Kế hoạch 6
tháng cuối năm về tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm, trong đó đã thực
hiện rà soát, lồng ghép và cắt giảm khoảng 20% số hội nghị, hội thảo,
tọa đàm và các chuyến công tác địa phương trong năm 2016 so với đề xuất ban đầu
của các đơn vị. Công tác hướng dẫn chuyên môn, trả lời kiến nghị của địa
phương, pháp chế Bộ, ngành được quan tâm đẩy mạnh, nhìn chung đã kịp thời tháo
gỡ vướng mắc về chuyên môn nghiệp vụ.
Bộ Tư pháp đã chủ
động, kịp thời cung cấp thông tin cho báo chí, các tầng lớp nhân dân, doanh
nghiệp các chính sách pháp luật, các giải pháp chỉ đạo, điều hành. Việc tổ chức
họp báo thường kỳ tiếp tục được đổi mới, kịp thời thông báo kết quả công tác tư
pháp, các vấn đề quan trọng được dư luận quan tâm. Công tác thông cáo báo chí
về VBQPPL do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành được duy trì hàng tháng.
Bộ Tư pháp đã ban hành mới Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí
của Bộ Tư pháp và Hệ thống Thi hành án dân sự (theo Quyết định số 1431/QĐ-BTP
ngày 05/7/2016), trong đó, bên cạnh việc quy định phát ngôn, cung cấp thông tin
cho báo chí tại Bộ Tư pháp, đã bổ sung yêu cầu Cục trưởng các Cục THADS tổ chức
cung cấp thông tin cho báo chí theo định kỳ và đột xuất. Nhằm phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, đảm bảo thực hiện tốt chức năng giám sát của nhân dân,
giải quyết các phản ánh, kiến nghị của nhân dân đối với công tác tư pháp, Bộ Tư
pháp và một số Sở Tư pháp (như Đồng Nai...) đã ban hành Kế hoạch và đang tích
cực chuẩn bị tổ chức đối thoại trực tiếp với nhân dân về công tác tư pháp.
II. KẾT
QUẢ CÔNG TÁC TRONG CÁC LĨNH VỰC CỤ THỂ
1. Công
tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất VBQPPL và
pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật
1.1. Công tác xây dựng VBQPPL
-
Trong 6 tháng đầu năm 2016, Bộ Tư pháp cùng các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã nỗ lực
hoàn thành khối lượng lớn công việc nhằm hoàn thiện thể chế, chính sách phục vụ
phát triển đất nước, được Chính phủ biểu dương tại Phiên họp chuyên đề xây dựng
pháp luật tháng 6/2016. Theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, tại kỳ họp
thứ 11, các Bộ, ngành đã giúp Chính phủ xây dựng, trình Quốc hội khóa XIII
thông qua hoặc cho ý kiến 07 luật[3],
trong đó có những dự án luật quan trọng triển khai thi hành Hiến pháp 2013 như:
Luật tiếp cận thông tin, Luật báo chí (sửa đổi); Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em (sửa đổi)... Cùng với đó, Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
năm 2017,
điều
chỉnh Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016 cũng đã
được Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành liên quan hoàn thiện để trình Quốc hội
khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ nhất. Hiện nay, các Bộ, ngành đang tích
cực xây
dựng, hoàn thiện các dự án luật quan trọng khác như: Luật trợ giúp pháp
lý (sửa đổi), Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước (sửa đổi), Luật
quy hoạch, Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật quản lý ngoại thương, Luật
phòng, chống tham nhũng (sửa đổi)...
-
Đối
với công tác xây dựng VBQPPL thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ và của các Bộ, ngành, trong 6 tháng đầu năm, các Bộ, cơ quan đã trình
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền hơn 400
văn bản, trong đó có 55 văn bản quy định chi tiết thi hành các luật,
pháp lệnh (21
nghị định, 02 quyết định, 28 thông tư, 04 thông tư liên tịch) và chùm nghị định
quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh có hiệu lực
từ ngày 01/7/2016, đáp ứng yêu cầu thực thi Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp và
tạo thuận lợi tối đa cho “khởi nghiệp”, cho môi trường đầu tư kinh doanh.
Riêng
Bộ Tư pháp đã trình 18/18 văn bản, đề án có thời hạn phải trình trong 6
tháng đầu năm 2016, đạt tỷ lệ 100%. Bên cạnh đó, thực
hiện công tác theo dõi tình hình xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết
hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, hàng tháng, Bộ Tư pháp đều phối hợp với các
Bộ, ngành quyết tâm giảm nợ đọng VBQPPL thông qua việc đôn đốc hoặc tổ chức làm
việc với các Bộ, ngành nợ đọng nhiều; hàng tháng, quý, Bộ Tư pháp đã có báo cáo
Chính phủ về tình hình xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết trình Chính
phủ tại các Phiên họp thường kỳ, nhờ đó, tình trạng nợ đọng văn bản quy định
chi tiết hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh đã từng bước được khắc phục hiệu
quả.
-
Tại các địa phương, 6 tháng đầu năm 2016 đã ban hành 1.548 VBQPPL cấp
tỉnh (giảm 64 văn bản so với cùng kỳ năm 2015); 2.923 VBQPPL cấp huyện
(giảm 690 văn bản so với cùng kỳ năm 2015); việc ban hành VBQPPL đáp ứng kịp
thời yêu cầu chỉ đạo, điều hành các mặt kinh tế - xã hội trên địa bàn, cơ bản
bảo đảm chất lượng, tiến độ và quy trình soạn thảo.
1.2. Công tác thẩm
định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá, hợp nhất VBQPPL và pháp điển hệ thống
quy phạm pháp luật (QPPL)
- Công tác thẩm định VBQPPL tiếp tục được chú trọng
nâng cao chất lượng và gắn kết chặt chẽ hơn với công tác kiểm soát thủ tục hành
chính. Trong 6 tháng đầu năm 2016, toàn Ngành Tư pháp đã tổ chức thẩm định 4.851
dự thảo VBQPPL (tăng 10,37% so với cùng kỳ năm 2015), trong đó có 4.311
dự thảo VBQPPL do các Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp thẩm định; Tổ chức Pháp chế các
Bộ, cơ quan ngang Bộ đã thẩm định 389 văn bản; Bộ Tư pháp đã thẩm định 151
dự thảo VBQPPL và 61 điều ước quốc tế.
Đặc biệt, thực hiện ý kiến chỉ đạo của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan
đẩy nhanh tiến độ thẩm định các nghị định về điều kiện đầu tư kinh doanh và đã
hoàn thành thẩm định đối với 50/50 nghị định theo Luật đầu tư và Luật
doanh nghiệp, qua đó đã đề nghị cắt giảm nhiều thủ tục, giấy phép, tạo thuận
lợi tối đa cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thực hiện chủ trương đổi mới công tác
thẩm định văn bản, Bộ Tư pháp đã tổ chức các cuộc họp tư vấn thẩm định với sự
tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học để thẩm định các VBQPPL. Nhìn chung, các ý kiến
thẩm định dự thảo VBQPPL đã được các cơ quan soạn thảo nghiên cứu, tiếp thu,
giải trình trước khi hoàn chỉnh và là cơ sở để cấp có thẩm quyền xem xét, ban
hành. Việc góp ý VBQPPL được toàn Ngành chú trọng thực hiện, ngày càng đi sâu
vào chất lượng, nhất là bảo đảm tính khả thi của văn bản. Riêng tại Bộ Tư pháp,
tính đến hết tháng 6/2016, đã thực hiện góp ý
447 dự thảo văn bản, trong đó
có 163 điều ước quốc tế, thỏa
thuận quốc tế.
- Công tác kiểm tra VBQPPL: Sáu tháng đầu năm 2016,
các Bộ, cơ quan, địa phương đã tiếp nhận kiểm tra theo thẩm quyền 17.181
VBQPPL (tăng 2.104 văn bản so với cùng kỳ năm 2015); qua kiểm tra, phát hiện
379 văn bản có dấu hiệu trái nội dung, thẩm quyền[4].
Riêng Bộ Tư pháp,
trong 6 tháng đầu năm đã kiểm tra 1.443 văn bản (gồm 497 văn
bản của các Bộ, cơ quan, 946 văn bản của địa phương); bước đầu phát hiện 58
văn bản trái pháp luật về nội dung, thẩm quyền ban hành (22 văn bản của các Bộ,
cơ quan, 36 văn bản của địa phương); Bộ đã thông báo kiểm tra
đối với 54 văn bản,
còn 04 văn bản đã được cơ quan ban hành văn bản tiếp thu, tự xử lý sau khi Bộ
Tư pháp tổ chức họp và trao đổi về các nội dung trái pháp luật[5]. Đến nay, 09 văn bản đã được xử lý; 16 văn bản đã có hướng xử lý;
33 văn bản đang
xử lý[6].
- Công tác
rà soát VBQPPL được các Bộ, ngành, địa phương thực hiện thường xuyên,
qua đó kịp thời phát
hiện văn bản hết hiệu lực thi hành hoặc không còn phù hợp với văn bản mới được
ban hành, trong đó, đã hoàn thành bước đầu nhiệm vụ rà soát pháp luật và đánh
giá tác động của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) với hệ thống
pháp luật Việt Nam và có báo cáo Chính phủ tại Phiên họp Chính phủ thường kỳ
tháng 4/2016. Cùng với đó, nhiều Bộ, ngành, địa phương đã tích cực thực hiện
việc rà soát văn bản về đầu tư, kinh doanh[7],
tích cực rà soát, lập và công bố Danh mục VBQPPL hết hiệu lực
toàn bộ hoặc một phần thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của các Bộ,
cơ quan, góp phần giúp cho hệ thống pháp luật được minh bạch, dễ tiếp cận, tạo
thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp và cơ quan nhà nước trong áp dụng.
- Công tác hợp nhất
VBQPPL, pháp điển hệ thống QPPL ngày càng đi vào nề nếp.
Bộ Tư pháp thường xuyên theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn các Bộ, ngành thực hiện
việc hợp nhất bảo đảm chất lượng, đúng tiến độ. Trong sáu tháng đầu năm 2016,
Bộ Tư pháp đã tổ chức thẩm định 09 Đề mục[8], nâng tổng số đề mục
đã được thẩm định lên 25 đề mục. Nhiều Bộ,
ngành đã quan tâm chỉ đạo công tác pháp điển, bố trí biên chế, kinh phí triển
khai công tác này. Đến nay, có 10/27 cơ quan thực hiện pháp điển đã tổ chức tập
huấn, hướng dẫn nghiệp vụ pháp điển cho công chức thuộc cơ quan mình[9].
Tính đến hết tháng 6
năm 2016, các Bộ, ngành, địa phương đã đánh giá tác động đối với 1.038
TTHC; đã cập nhật vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC và đăng tải công khai trên
Cổng/Trang thông tin điện tử của Bộ, ngành, địa phương 31.584 TTHC; tiếp
nhận và xử lý 2.386 phản ánh kiến nghị về hành vi hành chính, quy định
hành chính; thẩm định 1.653 TTHC trong 349 VBQPPL.
Bộ Tư pháp đã tham gia ý kiến đối với 322 TTHC, qua
đó, đề nghị không quy định 50 thủ tục không cần thiết, sửa đổi 250 thủ
tục không hợp lý; thực hiện thẩm định 606 TTHC, qua đó, đề nghị
không quy định 53 thủ tục, sửa đổi 149 thủ tục. Ngoài ra Bộ Tư pháp đã hoàn thành, trình Thủ
tướng Chính phủ Kế hoạch triển khai thiết lập Hệ thống thông tin tiếp nhận, xử
lý phản ánh, kiến nghị về quy định hành chính và tình hình, kết quả giải quyết TTHC
tại các cấp chính quyền; phối hợp với các Bộ, ngành trong việc thực hiện Kế
hoạch đơn giản hóa TTHC trọng tâm ban hành kèm theo Quyết định số 08/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ, đến nay, 3/5 Bộ đã trình và được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt phương án đơn giản hóa 13 nhóm TTHC trọng tâm[10].
Thực hiện vai trò là
cơ quan Thường trực Hội đồng Tư vấn cải cách TTHC của Thủ tướng Chính
phủ, cơ quan Thường trực của Ban chỉ đạo Đề án 896, Bộ
Tư pháp đã nghiên
cứu, xử lý các đề xuất đơn giản hóa quy định, TTHC đối với một số lĩnh vực
thuộc phạm vi quản lý của các Bộ: Công thương, Tài nguyên và Môi trường, Tài
chính, Y tế; chỉ
đạo thực hiện rà soát độc lập 2.105 TTHC có chứa thông tin công dân để kiến
nghị phương án đơn giản hóa, kết quả rà soát, đơn giản hóa TTHC trong một số
lĩnh vực đã có tác động tích cực đến người dân, doanh nghiêp như bảo hiểm, công
thương, y tế[11].
3. Công
tác quản lý xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC), theo dõi thi hành pháp luật
(TDTHPL)
Thể chế cho công tác
XLVPHC tiếp tục được quan tâm hoàn thiện. Bộ Tư pháp đã xây dựng, trình Chính
phủ dự thảo Nghị
định số 20/2016/NĐ-CP ngày 30/3/2016 quy định cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC.
Các
Bộ, ngành, đã tích cực hoàn thiện thể chế về XLVPHC trong các lĩnh vực thuộc
phạm vi quản lý của Bộ, ngành; tuyên truyền, phổ biến sâu rộng pháp luật về XLVPHC;
từng bước quan tâm chỉ đạo, nâng cao chất lượng công tác XLVPHC[12].
Theo báo cáo của các
Bộ, ngành và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong 6 tháng đầu năm
2016[13],
có 3.348.063
vụ
vi phạm hành chính bị phát hiện, đã xử phạt 3.249.223 vụ việc;
số vụ có dấu hiệu tội phạm được chuyển để truy cứu trách nhiệm hình sự là 3.279 vụ; có 2.974.380 đối tượng
bị xử phạt; tổng số tiền phạt thu được hơn 2.773 tỷ đồng.
Về việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, có 28.212 đối tượng bị đề
nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính; trong đó có 12.552 đối tượng bị đề
nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; 15.660 đối tượng bị đề
nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính do TAND quyết định.
Công tác TDTHPL tiếp
tục được chú trọng, gắn với công tác kiểm tra VBQPPL và kiểm soát TTHC. Các Bộ,
ngành, địa phương đã ban hành kế hoạch và tổ chức TDTHPL trong các lĩnh vực
thuộc phạm vi quản lý và các lĩnh vực đang thu hút nhiều sự quan tâm của dư
luận[14]
và lĩnh vực được xác định trọng tâm của TDTHPL trong năm 2016 (theo Nghị quyết
số 98/2015/QH13 của Quốc hội) là pháp luật về nhà ở xã hội, nhà ở cho người có
công, vùng thường xuyên bị thiên tai. Riêng Bộ Tư pháp đã tổ chức kiểm tra tình
hình thi hành pháp luật tại 03 Bộ, ngành (Bộ Xây dựng, Bộ Khoa học và Công nghệ
và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) và 02 địa phương (Lạng Sơn, Bắc Giang). Một số
địa phương (như An Giang...) đã thiết lập được đội ngũ cộng tác viên theo dõi
tình hình thi hành pháp luật, khảo sát tình hình thi hành pháp luật trong một
số lĩnh vực trên địa bàn tỉnh.
4. Công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), hòa giải ở cơ sở
- Xác định công tác
PBGDPL là một trong những công cụ quan trọng trong quá trình chuyển hướng chiến
lược từ xây dựng pháp luật sang hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật, công tác PBGDPL tiếp tục được các Bộ, ngành, các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương quan tâm, chỉ đạo, bám sát các nhiệm vụ chính
trị, phát triển kinh tế - xã hội theo đúng quy định của Luật phổ biến, giáo dục
pháp luật và Luật hòa giải ở cơ sở. Nhiều mục tiêu, quan điểm, chính sách mới
trong quá trình xây dựng luật gắn với những vấn đề dư luận xã hội quan tâm hoặc
cần định hướng dư luận để tạo đồng thuận trong xã hội đã được chú trọng phổ
biến. Đội
ngũ người làm công tác PBGDPL tiếp tục được rà soát, củng cố, kiện toàn. Đến
nay, cả nước đã có 21.719 Báo cáo viên pháp luật, tăng 1.349 người,
tương đương với 6,62% so với cùng kỳ năm 2015 (cấp Trung ương: 1.162 người; cấp
tỉnh: 5.704 người; cấp huyện: 14.853 người) và 134.354 tuyên truyền viên
pháp luật cấp xã, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm 2015.
Các Bộ,
ngành, địa phương cũng đã tổ chức nhiều Hội nghị tập huấn, phổ biến văn bản
pháp luật mới, nhất là tổ chức các đợt cao điểm tuyên truyền phổ
biến Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp thể
hiện qua số cuộc
tuyên truyền,
phổ biến
pháp luật
tăng đến 2,6 lần so với cùng kỳ năm 2015, với 1.088.694 cuộc tuyên
truyền cho
47.910.186 lượt người;
phát miễn phí 64.760.222 tài liệu
tuyên truyền, PBGDPL. Bộ Tư pháp
đã tổ chức 11
Hội nghị tập huấn giới thiệu các văn bản pháp luật mới cho Lãnh đạo, công chức
thực hiện công tác PBGDPL trên toàn quốc. Các hoạt động PBGDPL
trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài
Truyền hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam tiếp tục phát huy hiệu quả, liên
tục cập nhập, đưa tin về các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà
nước đến với đồng bào, nhân dân cả nước. Bên cạnh phương
thức PBGDPL truyền thống, các Bộ, ngành, địa phương cũng đã bước đầu có
những đổi mới[15]
trong công tác PBGDPL.
- Công tác hòa giải ở cơ sở tiếp tục
thể hiện vai trò quan trọng trong gắn kết cộng đồng dân cư, bảo đảm ổn định
trật tự an toàn cơ sở; Bộ, Ngành Tư pháp đang tích cực chuẩn bị tổ
chức Hội thi Hòa giải viên giỏi toàn quốc lần thứ 3. Theo thống kê, hiện
cả nước có 117.660 Tổ hòa giải; 669.873 hòa giải viên; trong 6 tháng đầu năm 2016 cả nước
tiếp nhận 103.381 vụ việc hòa giải, trung bình tỷ lệ hòa
giải thành đạt trên 73,41% (tăng trên 0,33% so với cùng kỳ năm 2015).
Một số địa phương có tỷ lệ hoà giải thành cao (như Hà Nam - 95,8%, Yên Bái -
91,7%, Vĩnh Long - 88,4%, Quảng Bình - 86,2%, Long An - 85,2%, Gia Lai - 84,7%).
5. Công
tác thi hành án dân sự (THADS)
Thể chế cho công tác THADS, hành chính
tiếp tục được chú trọng hoàn thiện; Bộ Tư pháp đã trình Chính phủ ban hành Nghị
định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 quy định về thời hạn, trình tự, thủ tục
thi hành án hành chính và xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản
án, quyết định của Tòa án. Toàn Hệ thống THADS chú trọng nâng cao hiệu quả công
tác chỉ đạo, điều hành, bảo đảm kỷ cương, kỷ luật hành chính, tập trung giải
quyết các vụ việc thu hồi tài sản cho nhà nước, các vụ việc liên quan đến tín
dụng ngân hàng. Một số kết quả cụ thể là:
- Về việc: Tổng số
thụ lý là 643.722 việc, tăng
4,79% so với cùng kỳ năm 2015 trong đó, số có điều kiện thi hành
là 526.562 việc, giảm
11,64% so với cùng kỳ năm 2015. Trong số có điều kiện thi hành, đã giải quyết
xong 296.041 việc (tăng 6,59% so với cùng kỳ năm 2015), đạt tỉ lệ 56,22%
(tăng 9,62% so với cùng kỳ năm 2015). Một số địa phương đạt kết quả cao về
việc là: Lai Châu (86,88%,), Bắc Kạn (86,83%), Hà Tĩnh (78,47%), Quảng Bình
(73,94%)...
|
|
Biểu đồ số 01: Kết
quả THADS về việc 6 tháng đầu năm 2015-2016
|
- Về tiền: Tổng số
thụ lý là trên 127.481 tỷ 139 triệu đồng, tăng 13,49%
so với cùng kỳ năm 2015 trong đó, số có điều kiện thi hành là trên 100.600 tỷ
867 triệu đồng, tăng 0,29% so với cùng kỳ năm 2015. Trong số có điều kiện thi
hành, đã giải quyết xong trên 14.083 tỷ 361 triệu đồng (tăng 26,92%
so với cùng kỳ năm 2015); đạt tỉ lệ 14,00% (tăng 2,94% so với cùng kỳ năm
2015). Một số địa phương đạt kết quả cao về tiền và khả năng hoàn thành chỉ
tiêu sớm là: Hải Dương (76,4%), Điện Biên (58,41%), Quảng Nam (33,36%), Đà
Nẵng (29,93%)...
|
|
Biểu đồ số 02: Kết
quả THADS về tiền 6 tháng đầu năm 2015-2016
|
Cùng với việc tăng
cường vận động, thuyết phục đương sự, các cơ quan THADS đã ra quyết định áp
dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với 4.513 trường hợp, giảm 42 trường
hợp (0,92%) so với cùng kỳ năm 2015. Trong số các trường hợp đã ra quyết định
cưỡng chế thi hành án, có 2.225 trường hợp cưỡng chế không huy động lực lượng (tăng
198 trường hợp so với cùng kỳ) và 2.285 trường hợp cưỡng chế có huy động
lực lượng (giảm 223 trường hợp so với cùng kỳ).
- Về thi hành án hành
chính
cũng được quan tâm, số việc phải đôn đốc thi hành án hành chính đã tiếp nhận là
182 việc (trong đó, số việc năm trước chuyển sang là 69 việc, số việc thụ lý
mới là 113 việc), tăng 14 việc (8,3%) so với cùng kỳ năm 2015. Kết quả: đã có
văn bản đôn đốc đối với 175 việc, đạt tỷ lệ 96,15%, còn 05 việc chưa có văn bản
đôn đốc (trong số 175 việc đã có văn bản đôn đốc, có 87 việc đã thi hành xong,
đạt tỷ lệ 49,7%, số việc chưa thi hành xong là 88 việc).
- Thực hiện chủ trương hướng mạnh về
cơ sở, Bộ Tư pháp đã tăng cường công tác kiểm tra chuyên đề, kiểm tra đột xuất;
các cơ quan THADS địa phương đã xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm
tra, tự kiểm tra công tác THADS tại địa phương, trong đó tập trung kiểm tra
việc thực hiện trình tự, thủ tục thi hành án, kế toán nghiệp vụ, việc quản lý,
sử dụng nguồn kinh phí cưỡng chế thi hành án, tình hình thu, nộp phí thi hành
án.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
được chỉ đạo sát sao, đảm bảo giải quyết đúng thời hạn, giải quyết ngay tại cơ
sở, hạn chế tình trạng khiếu kiện vượt cấp. Sáu tháng đầu năm, toàn Hệ thống đã
tiếp nhận 3.839 đơn khiếu nại và 518 đơn tố cáo, trong đó số vụ
việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền là 1.707 việc, đã giải quyết
được 1.492 việc, đạt tỷ lệ 87,4%, đang tiếp tục giải quyết 215
việc.
Việc phối hợp trong THADS ngày càng
phát huy hiệu quả, nhất là ở các địa phương. Bộ Tư pháp đã phối hợp với các cơ
quan, đơn vị có liên quan xây dựng các Quy chế phối hợp trong công tác THADS[16]; phối hợp với Bộ Công an
chỉ đạo rà soát khoản tiền trại giam đã thu của người phải thi hành án đang
chấp hành hình phạt tù; ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp
luật đối với các cơ quan THADS, kịp thời tháo gỡ vướng mắc cho địa phương.
- Công tác tổ chức
cán bộ
trong Hệ thống THADS được tập trung kiện toàn đối với những địa bàn còn hạn
chế, yếu kém; điều chỉnh chỉ tiêu biên chế căn cứ trên số lượng án, tăng cường,
biệt phái Chấp hành viên, công chức cho các địa bàn quá tải công việc, từng
bước thực hiện luân chuyển, chuyển đổi vị trí công tác trong toàn Hệ thống
THADS. Toàn Hệ thống đến nay có 3.948 Chấp hành viên, 598 Thẩm
tra viên, 1.731 Thư ký thi hành án. Bộ Tư pháp đã tổ chức thành công kỳ
thi tuyển Chấp hành viên sơ cấp và hiện nay đang tích cực chuẩn bị cho lần đầu
tiên thi tuyển công chức tập trung cho toàn Hệ thống THADS.
6.1. Công tác hộ
tịch, quốc tịch, chứng thực
- Công tác hộ tịch được
tập trung thực hiện và có nhiều khởi sắc. Đã chủ động, kịp
thời hướng dẫn, chỉ đạo các địa phương trong việc triển khai thi hành Luật hộ
tịch và các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành.
|
|
Biểu
đồ số 03: Số khai sinh, khai tử,
kết hôn 6 tháng đầu năm
2015-2016
|
Theo báo cáo của
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tính đến hết tháng 6 năm 2016, đã
thực hiện đăng ký khai sinh cho 956.581 trường hợp (giảm hơn 4,87% so
với cùng kỳ năm 2015), đăng ký khai sinh lại cho 250.715 trường hợp
(tăng gần 6,0% so với cùng kỳ năm 2015); khai tử cho 288.090 trường
hợp (tăng gần 4,4% so với cùng kỳ năm 2015), đăng ký kết hôn cho 397.715
cặp (giảm hơn 11% so với cùng kỳ năm 2015) trong đó có 7.503 trường
hợp có yếu tố nước ngoài. Đặc biệt, Bộ Tư pháp đã
triển khai thí điểm phân hệ phần mềm đăng ký khai sinh tại các thành phố: Hà
Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng và huyện Quế Phong - tỉnh Nghệ An;
thường xuyên hỗ trợ các địa phương tham gia sử dụng, khai thác phân hệ. Đến
ngày 05/7/2016, Hệ thống đã thực hiện đăng ký khai sinh cho 149.831
trường hợp và cấp số định danh cho cá nhân 130.487 trường hợp đăng
ký khai sinh mới.
|
- Công tác quốc tịch:
Việc
giải quyết hồ sơ cho nhập, cho thôi, cho trở lại quốc tịch Việt Nam bảo đảm
đúng quy định pháp luật; các Bộ, cơ quan đã phối hợp giải quyết kịp thời và
ngày càng đồng bộ hơn. Cơ sở dữ liệu quốc tịch cũng đã bước đầu được
hình thành, đáp ứng yêu cầu về tra cứu thông tin quốc tịch của các
cơ quan và địa phương, hướng đến việc thực hiện qua mạng điện tử trên
toàn quốc đối với các dịch vụ công trong lĩnh vực quốc tịch. Sáu
tháng đầu năm, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã trình Chủ tịch nước giải quyết 2.708
hồ sơ quốc tịch (trong đó có 2.699 hồ sơ xin thôi quốc tịch, 05
hồ sơ xin nhập và 04 hồ sơ xin trở lại quốc tịch Việt Nam); trả lời 1.940
trường hợp tra cứu, xác minh quốc tịch Việt Nam theo đề nghị của các cơ quan.
- Công
tác chứng thực: Các quy định liên quan đến hoạt động chứng
thực được triển khai thi hành đồng bộ, hiệu quả trong cả nước, đáp ứng yêu cầu
của tổ chức, cá nhân. Trên toàn quốc, đã chứng thực 45.005.694 bản sao (tăng
gần 26% so với năm 2015[17]);
thực
hiện được 3.475.215 việc chứng thực hợp đồng,
giao dịch, chữ ký và các văn bản thỏa thuận khác (tăng gần
25% so với cùng kỳ năm 2015).
6.2. Công tác nuôi
con nuôi: Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Lao động-Thương binh
và Xã hội ký Quy
chế số 721/QC-BTP-BLĐTBXH ngày 14/3/2016 về việc phối hợp công
tác giải quyết việc nuôi con nuôi nhằm hướng
đến giải quyết kịp thời, tạo điều kiện để trẻ em đang được chăm sóc, nuôi dưỡng
tại các cơ sở trợ giúp xã hội được làm con nuôi theo quy định của pháp luật. Công tác tìm
gia đình thay thế cho trẻ em ở nước ngoài, đặc biệt là cho trẻ em bị khuyết
tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo không có cơ hội tìm gia đình thay thế ở Việt
Nam được đẩy mạnh. Có 49 địa phương tham gia giải quyết việc nuôi con
nuôi nước ngoài, trong đó có 43 địa phương có cơ sở nuôi dưỡng với 71
cơ sở; 41/49 địa phương đã ban hành Quy chế phối hợp liên ngành trong
giải quyết việc nuôi con nuôi nước ngoài.
Trong 6 tháng đầu năm, các cơ
quan có thẩm quyền đã giải quyết 1.026 trường hợp nuôi con nuôi trong
nước (giảm 223 trường hợp so với cùng kỳ năm 2015); 257 trường hợp
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài (giảm 12 trường hợp so với cùng kỳ năm 2015).
6.3. Công tác lý lịch
tư pháp (LLTP) tập trung ứng dụng công nghệ thông tin ngày càng đảm bảo
nhận và trả kết quả cấp phiếu LLTP cho công dân tốt, đúng thời hạn hơn. Bộ Tư pháp
đã phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tổng kết và tổ chức Hội nghị toàn
quốc tổng kết 05 năm thi hành Luật LLTP; đề xuất các định hướng lớn để xây dựng
Luật LLTP (sửa đổi). Triển khai Phần mềm đăng ký cấp phiếu LLTP
trực tuyến và giải pháp tích hợp cấp phiếu LLTP trực tuyến với dịch vụ tiếp
nhận hồ sơ, trả kết quả cấp phiếu LLTP qua bưu chính, đến nay có 40 Sở
Tư pháp và Trung tâm LLTP quốc gia - Bộ Tư pháp đã triển khai cấp Phiếu LLTP
trực tuyến.
Tính đến hết tháng
6 năm 2016 các Sở Tư pháp đã cấp được 155.272
phiếu LLTP[18]
(tăng 24.691 Phiếu so với cùng kỳ năm 2015). Bộ Tư pháp cấp 199
phiếu LLTP của người nước ngoài đã từng cư trú tại Việt Nam; tiếp nhận, kiểm
tra, phân loại được: 113.320 thông tin; cung cấp 29.107 thông
tin cho các Sở Tư pháp; đưa vào lưu trữ 33.450 hồ sơ LLTP bằng giấy.
|
|
Biểu đồ số 04: Số
Phiếu LLTP đã cấp 6 tháng đầu năm 2015-2016
|
6.4. Công tác đăng ký
giao dịch bảo đảm (ĐKGDBĐ): Bộ Tư pháp đang tích cực thực hiện nâng cấp phần
mềm đăng ký trực tuyến giao dịch, bảo đảm đạt mức độ 4 về cung cấp dịch vụ công
trực tuyến để triển khai từ năm 2017, qua đó sẽ góp phần giảm thiểu các TTHC
trong lĩnh vực này. Sáu tháng đầu năm, các Trung tâm ĐKGDBĐ đã giải
quyết 310.874 yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm
và văn bản thông báo về việc thế chấp phương tiện giao thông (tăng khoảng 66%
so với cùng kỳ năm 2015), trong đó đơn trực tuyến là 116.672 đơn, chiếm
tỷ lệ 53,7% tổng số đơn yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin; Bộ Giao
thông vận tải và các địa phương đã giải quyết 1.279.627 đơn ĐKGDBĐ bằng
quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, cung cấp thông tin về ĐKGDBĐ về
bất động sản (bao gồm tàu bay, tàu biển).
6.5. Công tác bồi
thường nhà nước: Bộ Tư pháp đã phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao, các Bộ, ngành, địa phương tổ chức tổng kết 05 năm
thi hành Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước và đang tích cực xây
dựng dự án Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước (sửa đổi). Các hoạt
động theo dõi, đôn đốc, kiểm tra hoạt động giải quyết bồi thường được thực hiện
thường xuyên; công tác phối hợp quản lý nhà nước trong công tác bồi thường (nhất
là trong lĩnh vực tố tụng) được thực hiện hiệu quả hơn; việc rà soát, lập danh
sách, hướng dẫn giải quyết các vụ việc bồi thường được bảo đảm kịp
thời. Trong
6 tháng đầu năm 2016, các cơ quan có trách nhiệm bồi thường trên cả nước đã thụ
lý
69 vụ việc (trong đó
có 17 vụ việc thụ lý mới, giảm 05 vụ so với cùng kỳ năm 2015), đã giải quyết
xong 15/69 vụ việc. Số tiền Nhà
nước phải bồi thường trong các quyết định giải quyết bồi thường, bản án, quyết
định về giải quyết bồi thường đã có hiệu lực pháp luật là 08 tỷ 721 triệu 392
nghìn
đồng
(giảm 5 tỷ 678 triệu 061 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2015). Trong lĩnh vực
THADS, đã giải quyết xong 8/20 vụ việc (đạt tỷ lệ 40%) với số tiền phải bồi
thường 3 tỷ 998 triệu 692 nghìn đồng, hiện còn 12 vụ việc đang giải quyết.
Bộ Tài chính đã tiếp nhận và thực hiện
cấp phát kinh phí chi trả tiền bồi thường đối với 12 hồ sơ với tổng số tiền cấp
phát là 24 tỷ 827 triệu 605 nghìn đồng[19].
7.1. Công tác bổ trợ
tư pháp
Công tác quản lý nhà
nước trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp đã đạt được một số kết quả quan trọng: công tác
hoàn thiện thể chế tiếp tục được tăng cường với việc tiếp tục hoàn thiện dự án
Luật đấu giá tài sản để trình Quốc hội thông qua vào kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa
XIV (tháng 10/2016); việc phát triển các nghề tư pháp như luật sư,
công chứng, đấu giá
tài sản,
quản tài viên
tiếp tục được tăng cường theo định hướng phát triển số lượng đi đôi với tăng
cường chất lượng và theo quy hoạch, lộ trình phù hợp; việc thanh tra, kiểm tra
trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp ngày càng được các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương quan tâm thực hiện.
- Trong lĩnh vực
luật sư, tư vấn pháp luật, việc triển khai Chiến lược phát triển nghề
luật sư đến năm 2020, Đề án phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập
kinh tế quốc tế từ năm 2010 đến năm 2020 tiếp tục được thực hiện đồng bộ,
hiệu quả. Bộ
Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp với các Bộ, ban, ngành và Liên đoàn
Luật sư Việt Nam thực hiện việc kiện toàn chức danh Chủ tịch Liên đoàn luật
sư Việt Nam nhiệm kỳ II, góp phần tạo cơ sở để Liên đoàn củng cố tổ
chức ngày càng vững chắc...
|
|
Biểu đồ số 05: Số lượng
luật sư và tổ chức hành nghề luật sư 6 tháng đầu năm
2015-2016
|
Sáu tháng đầu năm, Bộ Tư pháp đã
cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư cho 485 trường hợp, cấp Giấy phép hành
nghề tại Việt Nam cho 21 trường hợp luật sư nước ngoài. Cả nước
hiện có tổng số 10.223 luật sư và 3.612 tổ chức hành nghề luật
sư.
Các
luật sư đã tham gia 117.531 việc (giảm trên 27,2% so với cùng kỳ năm
2015), nộp thuế trên 61,3 tỷ đồng (giảm hơn 19,3% so với cùng kỳ 2015).
- Về lĩnh vực công
chứng, việc
xã hội hóa hoạt động công chứng tiếp tục được thực hiện theo đúng định hướng,
quy hoạch, lộ trình phù hợp; tiếp theo tỉnh Lâm Đồng, sáu tháng đầu năm 2016, một
số địa phương (như thành phố Cần Thơ, Hà Nội...) đã thực hiện việc
chuyển đổi, xây dựng Đề án để chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công
chứng.
Sáu tháng đầu năm
2016, Bộ
Tư pháp đã tổ
chức thành công kỳ kiểm tra tập sự hành nghề công chứng lần thứ nhất cho hơn
200 thí sinh trên cả nước đảm bảo nghiêm túc, công khai, công bằng, khách quan,
hiệu quả, tiết kiệm; bổ nhiệm Công chứng viên cho 26 trường hợp; cả
nước có 923 tổ chức hành
nghề công chứng (141 phòng công chứng và 782 văn phòng công chứng) với 1.888
Công chứng viên đang hành nghề; cả nước có 17 Hội công chứng viên
đã được thành lập, đi vào hoạt động. Bộ Tư pháp đã trình Thủ tướng
Chính phủ xem xét phê duyệt Đề án thành lập Hiệp hội công chứng viên Việt Nam,
tạo điều kiện cho công chứng Việt Nam hội nhập, giao lưu và phát triển, thực
hiện nghĩa vụ với Liên minh công chứng quốc tế (UINL) mà Việt Nam là thành
viên. Các
tổ chức hành nghề công chứng đã công chứng được 2.073.467
hợp
đồng, giao dịch (giảm khoảng 0,21% so với cùng kỳ năm 2015), đóng góp cho Ngân
sách nhà nước hoặc nộp thuế trên 288,5 tỷ đồng.
- Về lĩnh vực giám
định tư pháp, tổ chức và hoạt động giám định tư pháp tiếp tục có chuyển
biến tích cực, bám sát Luật giám định tư pháp và Đề án 258 của Thủ tướng Chính
phủ. Bộ Tư pháp đã thực hiện việc thanh tra công tác giám định tư pháp đối với
Viện pháp y tâm thần Trung ương Biên Hòa và Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai, qua
hoạt động thanh tra đã góp phần phát hiện một số điểm bất cập trong các quy
định của pháp luật để kiến nghị sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn, đồng thời
chấn chỉnh những thiếu sót, hạn chế trong tổ chức và hoạt động của các đơn vị
giám định tư pháp. Cả nước đã có 137 tổ chức giám định tư pháp công lập,
01 văn phòng giám định tư pháp, 159 tổ chức giám định tư pháp
theo vụ việc, 5.277 Giám định viên tư pháp và 1.086 người giám
định tư pháp theo vụ việc.
- Về lĩnh vực bán đấu
giá tài sản, trọng tài thương mại, hòa giải thương mại, sáu tháng đầu
năm, các tổ chức
bán đấu giá ở các địa phương đã tổ chức đấu giá thành 9.594 cuộc, nộp
ngân sách hơn 293,36 tỷ đồng. Bộ Tư pháp đã cấp Chứng chỉ hành nghề
đấu giá viên cho 176 trường hợp, cấp lại cho 02 trường hợp và tiến hành
thu hồi 06 trường hợp; cả nước có 865 Đấu giá viên đang
hành nghề; Bộ Tư pháp cũng đã thẩm tra hồ sơ và cấp Giấy phép thành lập cho
04 Trung tâm trọng tài.
- Về lĩnh vực quản lý thanh lý tài
sản, thừa
phát lại, việc phát triển và quản lý các nghề mới như Quản tài viên,
Thừa phát lại cũng được quan tâm chú trọng. Trong 6 tháng đầu năm 2016,
Bộ Tư pháp đã tổ chức 02 Lớp bồi dưỡng chuyên sâu về kỹ năng hành nghề quản lý,
thanh lý tài sản cho hơn 140 Quản tài viên; có công văn hướng dẫn việc triển
khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về chế định Thừa phát lại tại địa phương...
Ngoài
ra, Bộ Tư pháp đã thẩm tra hồ sơ và cấp Chứng chỉ quản tài viên cho 142
trường hợp, nâng tổng số người đã được cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên
lên 679 người; cả nước hiện có 53 Văn phòng thừa phát lại với 328
Thừa phát lại.
7.2. Công
tác trợ giúp pháp lý (TGPL): Bộ Tư pháp đã phối hợp với
Bộ, ngành, địa phương hoàn thiện dự án Luật TGPL (sửa đổi) theo hướng lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL làm trung tâm; bảo đảm
chất lượng dịch vụ TGPL theo hướng chuẩn hóa đội ngũ người thực hiện TGPL, nâng
cao các điều kiện, tiêu chuẩn đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý. Tập trung vào việc thực hiện vụ việc tham gia tố tụng với việc ban
hành chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng cho Trợ giúp viên pháp lý năm 2016, trên cơ sở đó một số địa phương đã ban hành chỉ tiêu vụ
việc cho Trợ giúp viên pháp lý, đặc biệt có những địa phương đã tổ chức thực hiện vượt mức
kế hoạch (Hà Nam, Cà Mau, Bến Tre...).
Đến nay, trong toàn quốc, đội ngũ người thực hiện TGPL được củng cố với
595
Trợ giúp viên pháp lý, 1.239 Luật sư, 974 Tư vấn viên pháp luật
tham gia TGPL với tư cách cá nhân và 9.400
Cộng tác viên khác thực hiện TGPL. Sáu tháng đầu năm 2016, các Trung tâm TGPL
đã thực hiện 40.921 vụ việc TGPL cho 41.440 lượt người, trong
đó số vụ việc tham gia tố tụng ở nhiều địa phương tăng mạnh so với cùng kỳ năm
ngoái (như Quảng Nam tăng 240%; Lạng Sơn tăng 200%; Bến Tre tăng 190%; Gia Lai
tăng 63%…).
- Công tác điều
ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế: Công tác thẩm định điều ước quốc tế,
góp ý điều ước, thỏa thuận quốc tế được thực hiện cơ bản bảo đảm tiến độ, chất
lượng; tiếp tục chủ
trì, phối hợp với các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh rà soát pháp luật
bảo đảm thực thi Hiệp định TPP để báo cáo Chính phủ cuối năm 2016; hoàn
thành việc nộp văn kiện gia nhập Công ước La Hay về tống đạt giấy tờ tư pháp và
ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại.
- Công tác giải
quyết tranh chấp đầu tư quốc tế: Tiếp tục chủ động nghiên cứu và phối hợp
với các Bộ, ngành, địa phương giải quyết 03 vụ kiện tranh chấp đầu tư
quốc tế; phối hợp với các Bộ, ngành và luật sư quốc tế tư vấn, đại diện cho
Chính phủ Việt Nam thực hiện các hoạt động tố tụng trọng tài quốc tế; phối hợp
và hỗ trợ các địa phương trong việc nâng cao năng lực xử lý các vấn đề pháp
luật quốc tế, giải quyết tranh chấp do nhà đầu tư nước ngoài kiện UBND cấp
tỉnh.
Tính đến hết tháng 6 năm
2016, Bộ Tư pháp đã cấp 21 ý kiến pháp lý cho các hiệp định vay nước
ngoài, bảo đảm nguồn vốn và các điều kiện pháp lý cho các chương trình, dự án
nước ngoài; tiếp nhận, chuyển giao và trả kết quả 1.836 hồ sơ ủy thác tư
pháp (giảm 217 hồ sơ so với cùng kỳ năm 2015); tiếp nhận và chuyển 10
yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của Toà án
nước ngoài, Trọng tài nước ngoài (tăng 05 yêu cầu so với cùng kỳ năm 2015).
Bộ tiếp tục thực hiện
tốt vai trò đầu mối trong việc vận động, thu hút sự hỗ trợ quốc tế cho các hoạt
động hợp tác quốc tế về pháp luật. Công tác quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế
về pháp luật được tăng cường theo hướng thiết thực, hiệu quả hơn, gắn với việc
thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của Bộ, ngành. Các hoạt động hợp tác quốc tế song
phương về pháp luật được đẩy mạnh. Bên cạnh duy trì các hoạt động hợp tác
truyền thống, quan hệ hợp tác với các đối tác đặc biệt của Việt Nam như Lào,
Campuchia, Cuba tiếp tục được duy trì và làm sâu sắc, trong đó đã tích cực
triển khai xây dựng dự án cấp ODA cho Bộ Tư pháp Lào, phối hợp đề xuất tổ chức
Hội nghị Tư pháp các tỉnh đường biên với Lào, Campuchia. Bộ Tư pháp đã xây
dựng, đàm phán, ký kết 28 Thỏa thuận hợp tác, chương trình, kế hoạch hợp
tác; chuẩn bị và tổ chức 06 đoàn công tác nước ngoài của Lãnh đạo Bộ; tổ
chức tiếp đón 31 đoàn và tiếp 30 lượt khách quốc tế khác.
- Công tác tổ chức xây
dựng Ngành
có sự chủ động gắn kết chặt chẽ và kịp thời với các sự kiện chính trị lớn của
đất nước, như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, bầu cử Quốc hội khóa XIV và
Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. Tại đợt bầu cử đại biểu Quốc hội
khóa XIV vừa qua, có 03 cán bộ, công chức của Bộ và 08 cán bộ, công
chức của Sở Tư pháp, Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trúng cử đại
biểu Quốc hội.
Bộ Tư pháp đã ban
hành Quyết định kiện toàn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đối với 03 đơn vị
thuộc Bộ; nghiên cứu, xây dựng và thẩm định 09 Đề án về thành lập, đổi mới tổ
chức và hoạt động của các đơn vị; thực hiện quy trình bổ nhiệm, giao quyền,
giao phụ trách đối với 12 trường hợp, bổ nhiệm lại 07 trường hợp Lãnh đạo cấp
Vụ theo đúng
thẩm quyền, tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục. Công tác tuyển dụng,
tiếp nhận, điều động, chuyển công tác đối với cán bộ, công chức tiếp tục được
thực hiện theo đúng quy định. Công tác biên chế đã bám sát các chủ trương của
Đảng, chỉ đạo của Chính phủ; Đề án vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công
chức của các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp đã được Bộ Nội vụ phê duyệt; đang
tích cực xây dựng Đề án tinh giản biên chế Bộ Tư pháp giai đoạn 2015-2021
(bao gồm cả Hệ thống THADS) theo tinh thần Nghị quyết số 39-NQ/TW và Nghị định
số 108/2014/NĐ-CP về chính sách tinh giản biên chế.
Ở các địa phương, thực
hiện Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV, đến nay đã có 62/63[20] Sở Tư pháp được ban hành Quyết định quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức và thực hiện kiện toàn tổ chức bộ
máy của Sở, trong đó 54/63 Sở Tư pháp được cơ cấu gồm 08 phòng
thực hiện chức năng quản lý (Văn phòng, Thanh tra và 06 Phòng chuyên môn,
nghiệp vụ)[21].
Cả
nước có 709[22]
Phòng Tư pháp, với tổng số 3.186 người (bình quân 4,5 người/một
Phòng Tư pháp). Tổng số công chức Tư pháp - Hộ tịch giúp UBND cấp xã thực
hiện nhiệm vụ tư pháp là 17.675 người, trong đó 6.132/11.170 xã,
phường, thị trấn đã bố trí từ 02 công chức Tư pháp - Hộ tịch trở lên (chiếm
tỷ lệ 54,9% xã, phường, thị trấn trên cả nước).
Đối với công tác pháp
chế, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo, theo dõi, đôn đốc sát sao công tác củng cố, kiện
toàn tổ chức pháp chế và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức pháp
chế; tổ chức Đoàn kiểm tra, khảo sát liên ngành về thực hiện Nghị định số
55/2011/NĐ-CP tại một số tỉnh Tây Nguyên; trả lời các kiến nghị, yêu cầu về
chuyên môn, nghiệp vụ nhằm kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong
công tác pháp chế của các Bộ, ngành, doanh nghiệp... Đến nay, ở các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có 2.612 người làm
công tác pháp chế (1.340 người được bố trí
làm công tác pháp chế chuyên trách, 1.272 người kiêm nhiệm); ở các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh trong cả nước, có 2.059 người làm
công tác pháp chế (1.312 người chuyên trách, 747 người kiêm nhiệm).
- Công tác
đào tạo và bồi dưỡng cán bộ tiếp tục được chú trọng trên cơ
sở bám sát các tiêu chuẩn công chức, yêu cầu của vị trí việc làm và yêu cầu về
nguồn nhân lực tư pháp chất lượng phục vụ mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp
quyền. Công
tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã đang tiếp
tục được quan tâm đẩy mạnh thông qua việc tập trung chuẩn bị kỹ tài liệu bồi
dưỡng; quy định việc cấp chứng chỉ bồi dưỡng; nghiên cứu mở rộng đối tượng
giảng viên, báo cáo viên... Công tác đào tạo tại các cơ sở đào tạo thuộc Bộ
tiếp tục có những bước đổi mới về nội dung, chương trình, quy mô và phạm vi và ngày
càng được chuẩn hóa thông qua việc ban hành các Quy chế về đổi
mới cơ chế, chính sách thu hút đội ngũ cán bộ, giáo viên có chất lượng về giảng
dạy tại các Trường Trung cấp Luật; quản lý chứng chỉ đào tạo bồi dưỡng;
phối hợp đưa học sinh các Trường Trung cấp Luật thuộc Bộ Tư pháp đi thực tập
tại Phòng Tư pháp, Chi cục Thi hành án dân sự và UBND xã, phường, thị trấn… Sáu tháng
đầu năm 2016, Trường Đại học Luật Hà Nội đã tổ chức tốt nghiệp cho 1.731
sinh viên chính quy; Học viện Tư pháp đã tổ chức nhập học cho 1.891 học
viên và công nhận tốt nghiệp cho 815 học viên luật sư, kiểm sát viên,
đấu giá viên; các Trường Trung cấp luật đã tổ chức tuyển sinh 724[23] học sinh, công nhận tốt
nghiệp cho 182[24]
học sinh chính quy.
- Công tác nghiên cứu
khoa học pháp lý: Bộ Tư pháp tiếp tục triển khai các đề án, đề
tài khoa học; hoàn thiện Kế hoạch nghiên cứu các nhiệm vụ khoa học, nhiệm vụ
môi trường, nhiệm vụ điều tra cơ bản của Bộ Tư pháp năm 2017 gửi về các Bộ Khoa
học và Công nghệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường; tổ chức
các hội đồng tư vấn đề cương nhiệm vụ môi trường (02 nhiệm vụ), nhiệm vụ điều
tra cơ bản (02 nhiệm vụ), nhiệm vụ khoa học cấp cơ sở (05 nhiệm vụ). Tổ chức
thành công hội đồng nghiệm thu chính thức 04 đề tài cấp Bộ, 02 đề án cấp Bộ và
02 nhiệm vụ điều tra cơ bản; hoàn thành việc xây dựng Kế hoạch nghiên cứu khoa
học năm 2017. Công tác nghiên cứu khoa học ở các cơ sở đào tạo của Bộ tiếp tục được
chú trọng, bảo đảm gắn kết giữa nghiên cứu và đào tạo.
Công tác kế hoạch
tiếp tục đi vào nề nếp và bám sát các nhiệm vụ trọng tâm công tác của Bộ, Ngành
làm cơ sở để triển khai hiệu quả nhiệm vụ chính trị được giao. Chất lượng công
tác thống kê được nâng lên một bước với việc ban hành Thông tư số
04/2016/TT-BTP ngày 03/3/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định một số nội dung
về hoạt động thống kê Ngành Tư pháp.
Thực hiện Nghị quyết của Chính
phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước từ đầu năm và các quy định của
pháp luật, sáu tháng đầu năm 2016, công tác quản lý ngân sách - tài sản, đầu tư
xây dựng cơ bản tiếp tục được duy trì linh hoạt, hiệu quả. Việc xây dựng phương
án phân bổ dự toán NSNN (bao gồm kinh phí chi thường xuyên và vốn đầu tư phát
triển) được thực hiện đúng trọng tâm, trọng điểm, đúng thời hạn, bảo đảm các
quy định của pháp luật. Việc đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương
tiện làm việc cho các đơn vị được đầu tư đồng bộ, khang trang, hiện đại, đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp, góp phần quan trọng giúp các đơn vị hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao.
Trong 6 tháng đầu năm 2016, Bộ Tư pháp
đã triển khai 19 cuộc thanh tra, kiểm tra, xác minh giải quyết khiếu
nại, tố cáo (03 cuộc thanh tra hành chính, 02 cuộc thanh tra chuyên ngành, 04
cuộc kiểm tra sau thanh tra, 03 cuộc thanh tra đột xuất, 07 cuộc thanh tra xác
minh giải quyết khiếu nại, tố cáo). Kết quả, đã phát hiện, kiến nghị thu hồi về
ngân sách nhà nước 372.310.500 đồng, xử phạt vi phạm hành chính
số tiền là 91.000.000 đồng.
Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng tiếp tục được thực hiện thường xuyên,
đúng quy định. Trong 6 tháng đầu năm, Bộ Tư pháp đã tiếp 142 lượt công
dân đến khiếu nại, tố cáo, (giảm 33% so với 6 tháng đầu năm 2015) trong đó, Lãnh đạo
Bộ đã tiếp 21 lượt công dân; tiếp nhận 749 đơn thư (giảm
36% so với cùng kỳ năm 2015) trong đó có 180 đơn (158 đơn khiếu nai, 22
đơn tố cáo) thuộc thẩm quyền (chiếm 25%), 569 đơn không thuộc thẩm quyền
(chiếm 75%).
- Công tác báo chí,
xuất bản:
Chất lượng các ấn phẩm, tin bài của Báo Pháp luật Việt Nam và Tạp Chí Dân chủ -
Pháp luật tiếp tục được nâng cao, kịp thời thông tin về các sự kiện chính trị -
pháp lý của đất nước, các nhiệm vụ trọng tâm của Bộ, Ngành. Nhà xuất bản Tư
pháp tiếp tục thực hiện tốt công tác biên tập, không để sai sót về nội dung;
công tác xuất bản, phát hành các loại sách, giấy tờ hộ tịch, sổ hộ tịch, bìa hồ
sơ thi hành án, mẫu phiếu LLTP, mẫu quyết định về việc cho trẻ em Việt Nam làm
con nuôi nước ngoài đảm bảo tiến độ, chất lượng.
- Công tác ứng
dụng công nghệ thông tin, cải cách hành chính luôn được Bộ, Ngành
Tư pháp xác định là giải pháp chủ yếu để thực hiện có hiệu quả
nhiệm vụ và được xác định là nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2016. Hệ thống
quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008 đã được áp dụng
rộng khắp để giải quyết công việc chuyên môn tại các cơ quan, đơn vị trong toàn
Ngành. Bộ
Tư pháp đã xây dựng và đưa vào vận hành, khai thác sử dụng các hệ thống thông tin,
cơ sở dữ liệu có quy mô từ Trung ương tới các địa phương như: Hệ thống thông
tin LLTP; Hệ thống thông tin quốc tịch; Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật; Cơ
sở dữ liệu quốc gia về TTHC (Số TTHC công khai trên toàn hệ thống là 170.757
thủ tục)… Nhằm đẩy mạnh việc xây dựng Chính phủ điện tử, Bộ Tư pháp đang
tập trung hoàn thiện các ứng dụng để cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức 3, 4
trong lĩnh vực LLTP, ĐKGDBĐ; đồng thời, Bộ cũng có kế hoạch xây dựng Cổng dịch
vụ công nhằm cung cấp các dịch vụ công còn lại mức độ 3 theo Nghị quyết số
36a/NQ-CP của Chính phủ.
Cơ
sở dữ liệu quốc gia về pháp luật tiếp tục được cập nhập với 95.558 VBQPPL
do cơ quan Trung ương và địa phương ban hành; việc sử dụng hệ thống thư điện tử
để trao đổi công việc đã được thực hiện thường xuyên; hệ thống Hội nghị truyền
hình, giao ban, tập huấn trực tuyến được áp dụng rộng rãi, hỗ trợ đắc lực
và đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả cho công tác chỉ đạo, điều hành các
lĩnh vực công tác của Bộ, Ngành, đặc biệt là phục vụ các Hội nghị
lớn của Ngành.
Công
tác cải cách hành chính được đặt trọng tâm vào 03 lĩnh vực là cải cách
thể chế, cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa hành chính.
Bộ Tư pháp đang thực hiện việc đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức
về sự phục vụ của Bộ Tư pháp đối với lĩnh vực ĐKGDBĐ để nắm bắt được yêu cầu,
mong muốn của người dân, tổ chức, qua đó có những biện pháp cải thiện chất
lượng phục vụ và cung cấp dịch vụ công.
- Công tác thi đua - khen
thưởng: Bộ Tư pháp đã sớm xây dựng, ban hành Bảng
Tiêu chí thi đua, thang điểm đánh giá, xếp hạng Sở Tư pháp và Cục THADS các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương năm 2016; phát động các Phong trào thi
đua “Cơ quan Tư pháp địa phương chủ động, sáng tạo, tích cực thi đua hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp năm 2016”; Phong trào “Cán bộ Tư
pháp tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
giai đoạn 2016-2020; “Ngành Tư pháp chung sức góp phần xây dựng nông thôn mới”
giai đoạn 2016-2020; phối hợp với các Cụm, Khu vực thi đua trong toàn Ngành tổ
chức phát động đăng ký thi đua năm 2016. Công tác khen thưởng tiếp tục đảm bảo
thực chất, khách quan, chính xác, đúng quy định, đã kịp thời động viên, khích
lệ các tập thể, cá nhân trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Sáu tháng đầu
năm, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã khen thưởng hoặc trình cấp có thẩm quyền khen
thưởng cho hơn 200 trường hợp.
*
ĐÁNH GIÁ CHUNG
Sáu
tháng đầu năm 2016, Bộ, Ngành Tư pháp đã khẩn trương triển khai toàn diện, có
trọng tâm, trọng điểm, bám sát Chương trình, Kế hoạch công tác, các Nghị quyết,
chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và nhiệm vụ chính trị của từng địa
phương. Các nhiệm vụ của Bộ, Ngành Tư pháp được thực hiện bảo đảm chất lượng,
tiến độ so với chương trình, kế hoạch đã đề ra từ đầu năm (đã hoàn thành 31/33
nhiệm vụ, đạt gần 94%); một số mặt công tác có chuyển biến tích cực, đạt kết
quả cao: Việc xây dựng, hoàn thiện các VBQPPL tiếp tục được chú trọng đầu tư
nguồn lực, nhất là với các văn bản quy định chi tiết các luật, pháp lệnh, qua
đó từng bước giảm thiểu có hiệu quả tình trạng “nợ đọng” văn bản; việc thẩm
định VBQPPL, nhất là các nghị định về điều kiện đầu tư kinh doanh được thực
hiện khẩn trương, bảo đảm tiến độ để các Bộ, ngành trình Chính phủ; việc phối
hợp với các Bộ, ngành xây dựng, góp ý các VBQPPL được thực hiện tốt; công tác
PBGDPL, nhất là các văn bản liên quan đến bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các
cấp được toàn Ngành tập trung đẩy mạnh; thi hành án dân sự đạt kết quả cao hơn
cùng kỳ 2015; công tác hành chính tư pháp, nhất là triển khai Luật hộ tịch, bước
đầu đạt hiệu quả, kịp thời phục vụ nhân dân; việc tham gia ý kiến pháp lý đối
với các vụ việc, các sự kiện liên quan đến môi trường, đầu tư quốc tế... được
thực hiện kịp thời, có chất lượng; hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật đạt
nhiều kết quả tốt.
III. HẠN
CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Hạn chế
- Còn nhiều
Bộ, ngành, địa phương chưa bám sát các kế hoạch xây dựng các VBQPPL, chẳng hạn
việc xây dựng các nghị định về điều kiện đầu tư, kinh doanh, mặc dù có thời
gian chuẩn bị khá lâu, nhưng nhiều cơ quan chỉ tập trung xây dựng vào giai đoạn
cuối, khi sắp đến hạn phải trình ban hành. Tình trạng nợ đọng văn bản quy định
chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh đã có hiệu lực chưa được giải
quyết hiệu quả. Chất lượng của một số VBQPPL chưa cao, còn có sai sót. Một số
Bộ, cơ quan, địa phương chưa phát huy hiệu quả công tác kiểm tra, tự kiểm tra,
chưa thường xuyên gửi văn bản đến cơ quan kiểm tra theo quy định tại Nghị định
40/2010/NĐ-CP; việc xử lý VBQPPL có dấu hiệu trái pháp luật còn đối phó, chưa
được thực hiện dứt điểm. Việc thực hiện một số nhiệm vụ về cải cách TTHC chưa
bảo đảm tiến độ; tình trạng Bộ, ngành, địa phương chậm công khai TTHC trên Cơ
sở dữ liệu quốc gia về TTHC còn nhiều.
- Quản lý XLVPHC, TDTHPL
còn nhiều khó khăn, nhất là về phương thức tổ chức thực hiện, chưa xây dựng
được Cơ sở dữ liệu về XLVPHC; hiệu quả công tác TDTHPL ở một số Bộ, ngành, địa
phương chưa có nhiều chuyển biến, chưa phản ánh đúng những khó khăn vướng mắc,
bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật.
- Một số nhiệm
vụ PBGDPL mới dừng lại ở việc ban hành văn bản hướng dẫn, chỉ đạo, chưa tổ chức
triển khai trên thực tế; chưa khắc phục được tính hình thức trong hoạt động
PBGDPL; một số nội dung chưa phù hợp, chưa sát với nhu cầu của cán bộ, công
chức, người dân hoặc chưa đúng trọng tâm, còn dàn trải; công tác PBGDPL cho các
đối tượng đặc thù chưa được quan tâm đúng mức.
- Kết quả công tác
THADS chưa có sự đột phá đáng kể; kết quả thi hành án xong về tiền dự báo khó
đạt chỉ tiêu năm 2016; số việc và tiền có điều kiện chưa thi hành xong chuyển
kỳ sau còn nhiều (226.408 việc và trên 83.374 tỷ đồng). Việc thực hiện trình
tự, thủ tục về THADS vẫn còn nhiều sai sót; vai trò của Ban chỉ đạo THADS ở một
số nơi còn chưa được phát huy. Vi phạm trong công tác THADS còn nhiều, số lượng
công chức bị xử lý kỷ luật tăng so với cùng kỳ, đã phát hiện và xử lý
kỷ luật, thậm chí bị truy tố là 46 trường hợp (tăng 13 trường hợp so với
cùng kỳ năm 2015).
- Còn lúng túng trong
việc giải quyết hộ tịch có yếu tố nước ngoài khi thực hiện phân cấp theo quy
định mới của Luật hộ tịch. Nhiều địa phương chưa chỉ định được cơ sở nuôi dưỡng
theo Luật nuôi con nuôi. Công tác xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP vẫn chưa đáp ứng
yêu cầu của Luật LLTP; còn tồn tại tình trạng tồn đọng thông tin LLTP chưa được
cập nhập bổ sung; chất lượng dữ liệu LLTP điện tử chưa đảm bảo. Việc giải quyết
bồi thường còn kéo dài, thủ tục phức tạp, ảnh hưởng đến quyền lợi của người được
bồi thường.
- Quản lý nhà nước về
lĩnh vực luật sư, công chứng, bán đấu giá tài sản ở các địa phương còn lỏng
lẻo, chưa bao quát, chưa nắm bắt kịp thời những tiêu cực, bức xúc trong các
lĩnh vực này. Công tác phối hợp giữa Đoàn luật sư và Sở Tư pháp chưa
cao, chưa đảm bảo triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ có liên quan. Việc thành
lập Hội công chứng viên tại một số địa phương còn chậm so với yêu cầu; hoạt
động của một số Văn phòng công chứng còn thiếu tính chuyên nghiệp. Khó khăn,
vướng mắc trong quá trình triển khai Thông tư liên tịch số
14/2015/TTLT-BTNMT-BTP và Thông tư số 02/2015/TT-BTC liên quan đến bán đấu giá
quyền sử dụng đất chậm được tháo gỡ, gây ách tắc công việc tại nhiều địa phương;
nhiều tổ chức bán đấu giá tài sản vi phạm quy trình bán đấu giá tài sản. Công tác quản
lý thanh lý tài sản chưa thực sự phát huy vai trò trong việc tham gia giải
quyết các vụ việc phá sản. Công tác giám định tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn, nhất là trong việc xét xử các vụ án về tham nhũng, kinh tế. Việc triển
khai Đề án đổi mới công tác TGPL ở một số địa phương còn gặp khó khăn trong
việc thực hiện tinh giản biên chế và chuyển số biên chế dôi dư.
- Công tác pháp
chế ở nhiều địa phương còn yếu. Công tác thanh tra của Bộ, Ngành còn chậm
được đổi mới, một số việc thanh tra, kiểm tra chưa được thực hiện kịp thời,
nhất là khâu hậu kiểm. Hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong một số lĩnh
vực của Bộ, Ngành chưa cao; một số phần mềm, ứng dụng được xây dựng nhưng chưa
được sử dụng hiệu quả trên thực tế.
2. Nguyên nhân
- Thể chế trong một
số lĩnh vực chưa được quy định cụ thể, thống nhất, như về quản lý XLVPHC,
TDTHPL, giám định tư pháp..., gây khó khăn cho các Bộ, ngành, địa phương trong
triển khai thực hiện.
- Một số Bộ,
ngành, địa phương chưa quan tâm đúng mức đối với công tác tư pháp, pháp chế,
nhất là trong xây dựng pháp luật, kiểm tra VBQPPL, kiểm soát TTHC, TDTHPL; công
tác tham mưu của một số Tổ chức pháp chế còn chưa kịp thời, nhất là trong việc
khắc phục tình trạng nợ đọng văn bản.
- Khối lượng công việc
của Bộ, Ngành Tư pháp ngày càng tăng, nhiều việc khó, phức tạp, yêu cầu về chất
lượng, tiến độ công việc ngày càng cao, nhất là trong các lĩnh vực xây dựng
pháp luật, kiểm soát TTHC, quản lý XLVPHC và TDTHPL, THADS, giải quyết tranh
chấp đầu tư quốc tế... Trong khi đó, đội ngũ công chức của Bộ, Ngành Tư pháp
còn chưa đáp ứng đầy đủ cả số lượng và chất lượng. Đặc biệt, việc
thành lập và củng cố, kiện toàn các tổ chức pháp chế ở cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cấp tỉnh ở nhiều địa phương chưa được quan tâm thực hiện đúng quy định.
-
Nguồn kinh phí để thực hiện nhiệm vụ trong một số lĩnh vực, như PBGDPL, TGPL, TDTHPL,
còn chưa được quan tâm đúng mức đã ảnh hưởng đến việc triển khai thực hiện
nhiệm vụ được giao.
-
Công tác phối hợp giữa Bộ, Ngành Tư pháp với với các cơ quan, địa phương trong
nhiều lĩnh vực công tác còn thiếu chủ động, hiệu quả chưa cao. Hiệu quả phối
kết hợp công tác trong thực hiện một số nhiệm vụ của các đơn vị thuộc Bộ chưa
cao.
Phần thứ
hai:
NHIỆM
VỤ TRỌNG TÂM, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THỰC HIỆN CÔNG TÁC TƯ PHÁP 6 THÁNG CUỐI NĂM
2016
Trong bối cảnh tình
hình chính trị thế giới và khu vực dự báo còn diễn biến phức tạp, kinh tế toàn
cầu còn gặp nhiều khó khăn, tác động tiêu cực tới tình hình phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước. Trên cơ sở những kết quả đạt
được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong việc thực hiện công tác tư
pháp 6 tháng đầu năm; bám sát các Nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết số
19-2016/NQ-CP, Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ; các nhiệm vụ trọng tâm và
giải pháp công tác đã được đề ra từ đầu năm 2016 và sự chỉ đạo, điều hành kinh
tế - xã hội của Chính phủ, Thủ trưởng Chính phủ, nhất là chỉ đạo
về “Chuyển mạnh từ Chính phủ với phương thức chỉ đạo, điều hành mệnh lệnh
hành chính sang Chính phủ kiến tạo và phục vụ; lấy sự hài lòng của doanh
nghiệp, người dân là thước đo hiệu quả hoạt động”, các
nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp công tác được xác định là:
I. NHIỆM
VỤ TRỌNG TÂM CÔNG TÁC TƯ PHÁP 6 THÁNG CUỐI NĂM 2016
1. Triển khai có
hiệu quả Chương trình hành động của Bộ Tư pháp thực hiện Nghị quyết Đại hội XII
của Đảng. Tập trung xây dựng dự án Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
(sửa đổi), Luật trợ giúp pháp lý (sửa đổi); hoàn thiện dự án Luật đấu giá tài
sản bảo đảm đúng tiến độ, chất lượng. Phối hợp với Ủy ban Tư pháp của Quốc hội,
các Bộ, ngành hữu quan xây dựng, hoàn thiện dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật hình sự năm 2015; phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao ban
hành văn bản hướng dẫn việc thực hiện các quy định có lợi cho người phạm tội
theo Nghị quyết số 144/2016/QH13 của Quốc hội. Nghiên cứu, đề xuất xây
dựng dự án Luật đăng ký tài sản.
Tích cực tham mưu để Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ ban hành các giải pháp mạnh mẽ nhằm thực hiện nghiêm túc, đảm
bảo tiến độ, chất lượng Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016 của Quốc
hội; theo dõi, đôn đốc, thường xuyên kiểm tra các Bộ, ngành trong việc soạn
thảo các dự án luật, pháp lệnh, ban hành văn bản quy định chi tiết, nhất là
Luật sửa đổi, bổ sung một số Luật về đầu tư, kinh doanh, khắc phục triệt để
tình trạng nợ đọng văn bản theo kế hoạch năm 2016. Nâng cao hơn nữa chất
lượng, bảo đảm tiến độ công tác góp ý, thẩm định VBQPPL, đặc biệt đối với quy
trình phân tích, đánh giá tác động, thẩm định chính sách, trong đó tập trung
xây dựng, ban hành Quyết định về thẩm định đề nghị xây dựng VBQPPL và thẩm định
dự án, dự thảo VBQPPL. Thường xuyên cung cấp thông tin, công khai quá trình xây
dựng, thẩm định, kiểm tra VBQPPL, kiểm soát TTHC của Bộ Tư pháp. Tăng cường
việc kiểm tra và xử lý văn bản, nhất là tại các địa phương phát hiện nhiều văn
bản ban hành trái quy định của pháp luật.
2. Tổ chức triển
khai bài bản, hiệu quả Luật ban hành VBQPPL năm 2015, Nghị định số
34/2016/NĐ-CP của
Chính phủ quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
ban hành VBQPPL năm 2015, tạo bước đột phá ngay từ khâu xây
dựng chính sách; triển khai đồng bộ các luật có hiệu lực trong năm 2016. Chuẩn bị tốt
các điều kiện cần thiết để triển khai Bộ luật dân sự năm 2015. Triển khai thực
hiện chất lượng, đúng tiến độ Chương trình hành động của Bộ Tư pháp thực hiện
Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP, Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ.
3. Đẩy mạnh
công tác PBGDPL, nhất là các bộ luật, luật, nghị quyết mới được Quốc hội thông
qua, có hiệu lực trong năm 2016. Chủ động thông tin, tuyên truyền chủ trương,
chính sách, quy định mới, các hành vi bị luật cấm và chế tài xử lý; các vấn đề
dư luận quan tâm hoặc cần định hướng dư luận xã hội trong quá trình xây dựng,
thi hành và áp dụng pháp luật; kịp thời cập nhật VBQPPL vào Cơ sở dữ liệu quốc
gia về văn bản pháp luật, đảm bảo cung cấp thông tin pháp luật công khai, minh
bạch, tạo điều kiện thuận lợi tối đa để mọi cá nhân, tổ chức tiếp cận, khai
thác, sử dụng. Tập trung xây dựng, hoàn thiện Đề án đổi mới công tác truyền
thông của Bộ, Ngành Tư pháp.
4. Tiếp tục
triển khai thực hiện quyết liệt Luật hộ tịch, trong đó mở rộng thí điểm đăng ký
khai sinh và cấp số định danh cá nhân nhằm cung cấp kịp thời, chính xác thông
tin vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; triển khai xây dựng Dự án khả thi Cơ
sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc, gắn với việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện
Đề án tổng thể đơn giản hóa TTHC, giấy tờ công dân; trang bị đầy đủ phần mềm
đăng ký, quản lý hộ tịch cho các địa phương được lựa chọn trong giai đoạn thí điểm.
Khẩn trương trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và có kế hoạch triển khai “Chương
trình hành động quốc gia về đăng ký và thống kê hộ tịch giai đoạn 2016 - 2024”.
Đề xuất và triển khai các giải pháp để giải quyết tốt vấn đề hộ tịch, quốc tịch
cho trẻ em là con của công dân Việt Nam với người nước ngoài đang cư trú trên
lãnh thổ Việt Nam. Thực hiện thí điểm giải pháp tự động hóa xây dựng, quản lý,
vận hành, khai thác cơ sở dữ liệu LLTP. Triển khai thực hiện tốt Quy chế phối
hợp liên ngành giữa Bộ Tư pháp và Bộ Lao động - Thương Binh
và Xã hội về giải
quyết việc nuôi con nuôi.
5. Đẩy mạnh
công tác THADS, hành chính, quyết tâm phấn đấu đạt hoặc vượt các chỉ tiêu được
giao trong Nghị quyết của Quốc hội về công tác tư pháp (xong
trên 70% về việc và trên 30% về tiền trên tổng số việc, tiền có điều kiện thi
hành, giảm ít nhất 5% đến 7% số việc và 2% đến 4% số tiền có điều kiện thi hành
chuyển sang năm 2017 so với số chuyển kỳ sau của năm 2015 chuyển sang năm 2016). Giải
quyết dứt điểm các vụ việc trọng điểm, phức tạp, kéo dài, đặc biệt đối với các
vụ án tham nhũng nhằm thu hồi tài sản nhà nước, các vụ việc liên quan đến tín
dụng, ngân hàng nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo môi trường đầu
tư kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp. Tăng cường cải cách
hành chính, triển khai thực hiện cơ chế “một cửa”, ứng dụng công nghệ thông tin
trong quá trình thụ lý đơn và giải quyết yêu cầu thi hành án; cung cấp dịch vụ
công mức độ 2.
Tăng
cường hơn nữa công tác phối hợp với các cơ quan hữu quan nhằm kịp thời giải
quyết những vướng mắc phát sinh, đảm bảo tiến độ, chất lượng. Tổ chức thành
công Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống THADS (19/7/1946 - 19/7/2016).
6. Tập trung
nghiên cứu, sửa đổi Nghị định số 81/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính. Khẩn trương
hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc
gia về XLVPHC. Thực hiện hiệu quả Nghị định số 56/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chế độ áp
dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Nghị định
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 221/2013/NĐ-CP quy định chế độ áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc sau khi được
Chính phủ ban hành. Đẩy mạnh công tác TDTHPL, Kế hoạch TDTHPL về nhà ở xã hội,
nhà ở cho người có công, vùng thường xuyên bị thiên tai.
7. Thực hiện
hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp về cải cách TTHC, kiểm soát TTHC trong Nghị
quyết số 19-2016/NQ-CP, Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ đảm bảo đơn giản
hóa, bãi bỏ các TTHC không còn phù hợp, giảm thiểu chi phí tuân thủ TTHC. Tập
trung hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đơn giản hóa chế độ
báo cáo trong các cơ quan hành chính nhà nước; ban hành Quyết định quy định
về việc tiếp nhận, trả kết quả giải quyết TTHC cho cá nhân, tổ chức qua dịch
vụ bưu chính công ích để giảm thiểu tiêu cực, nhũng nhiễu, tạo thuận lợi, tiết
kiệm chi phí và giảm thời gian đi lại cho người dân; khắc phục tình trạng chậm
công bố, công khai TTHC trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC.
8. Tổ chức thực
hiện hiệu quả Đề án thành lập Hiệp hội công chứng Việt Nam sau khi được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt; chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tổ chức thực
hiện tốt Luật đấu giá tài sản sau khi được Quốc hội thông qua. Đẩy mạnh việc
triển khai Nghị định số 22/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật phá sản về quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý
tài sản; thực hiện thông báo và hướng dẫn cụ thể việc đăng ký hành nghề Quản
tài viên. Khẩn trương báo cáo Thủ tướng Chính phủ đề xuất phương án xử lý các
quy định không thống nhất giữa Thông tư số 02/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính và
Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-BTNMT-BTP liên quan đến việc xác định giá
khởi điểm trong đấu giá quyền sử dụng đất. Tiếp tục phối hợp với Liên đoàn
Luật sư Việt Nam đảm bảo hoạt động của Liên đoàn ngày càng hiệu quả, ổn định; phối hợp
chặt chẽ với các cơ quan hữu quan trong việc kiện toàn chức danh Bí thư Đảng
đoàn Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Tiếp tục đổi mới công tác TGPL, tập trung
nâng cao chất lượng hoạt động TGPL, tập trung thực hiện vụ việc TGPL trong đó
chú trọng vụ việc tham gia tố tụng.
9. Khẩn trương
hoàn thiện, trình Quốc hội Báo cáo rà soát, đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp
luật, đảm bảo phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP). Triển khai hiệu quả Công ước La Hay về
tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự
và thương mại. Thực
hiện tốt việc cấp ý kiến pháp lý theo quy định của pháp luật; tiếp tục triển
khai các giải pháp nâng cao năng lực phòng ngừa và giải quyết tranh chấp giữa
nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan nhà nước, Chính phủ. Tăng cường quản lý
nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả và bảo đảm tính kế thừa bền vững trong các hoạt
động hợp tác quốc tế về pháp luật; thúc đẩy hợp tác đa phương; làm sâu sắc quan
hệ hợp tác với các nước Lào, Campuchia.
10. Chú trọng đào
tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính
trị, trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; tập trung đầu tư cho đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức trẻ có trình độ chuyên môn sâu, nguồn nhân lực
chất lượng cao của Bộ, Ngành Tư pháp; chuẩn hóa đội ngũ cán bộ tư pháp cấp
huyện, công
chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã theo đúng quy định của Luật hộ tịch. Nghiên
cứu, đề xuất việc duy trì, kiện toàn các tổ chức pháp chế theo quy
định của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP. Nâng cao hơn nữa kỷ cương, kỷ luật
công vụ trong toàn Ngành; tập trung kiểm tra, thanh tra, kịp thời phát
hiện, xử lý nghiêm cán bộ, công chức, các tổ chức hành nghề tư pháp, tổ
chức bán đấu giá tài sản nhũng nhiễu, gây phiền hà, vi phạm pháp luật.
11. Tiếp tục hiện
đại hóa hoạt động công vụ, ứng dụng triệt để công nghệ thông tin, đảm bảo hết
năm 2016, 100% các dịch vụ công đã đăng ký với Chính phủ theo Nghị quyết số
36a/NQ-CP được cung cấp trực tuyến ở mức độ 3 và 4 (cấp phiếu LLTP; ĐKGDBĐ về
động sản (trừ tàu bay, tàu biển)); kết nối, liên thông Hệ thống quản lý văn bản
và điều hành của Bộ với Phần mềm quản lý văn bản của Văn phòng Chính phủ. Tập
trung xây dựng, vận hành Trang thông tin điện tử về xây dựng pháp luật.
12. Đổi mới công
tác thi đua - khen thưởng, đánh giá cán bộ, công chức, tạo không khí thi đua
sôi nổi trong toàn Ngành; đảm bảo đánh giá nghiêm túc, chính xác kết quả xếp
hạng Sở Tư pháp, Cục THADS các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo đúng
Bảng tiêu chí chấm điểm thi đua, xếp hạng được ban hành kèm theo Quyết định số
1326/QĐ-BTP và Quyết định số 1327/QĐ-BTP của Bộ Tư pháp.
1. Tiếp tục
triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch công tác, ưu
tiên thực hiện những nhiệm vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội năm 2016 theo Nghị quyết số 98/2015/QH13 của Quốc hội,
Nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP, Nghị quyết số
35/NQ-CP của Chính phủ; các nội dung cần thể chế hoá trong văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XII.
2. Đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin trong quản lý, chỉ đạo, điều hành và giải quyết công
việc chuyên môn, nghiệp vụ; tăng cường sử dụng hệ thống giao ban điện tử đa
phương tiện trong tổ chức các cuộc họp, hội thảo, đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả.
3. Tăng cường
kỷ cương, kỷ luật hành chính, cải tiến lề lối làm việc; tăng cường hiệu quả các
cuộc họp, giảm số lượng cuộc họp; khắc phục kịp thời những hạn chế, bất cập, xử
lý nghiêm các biểu hiện tiêu cực, gây phiền hà, sách nhiễu trong khi giải quyết
yêu cầu của người dân, nhất là trong các lĩnh vực THADS, hộ tịch, LLTP.
4. Đẩy mạnh việc kiện
toàn bộ máy, nhân lực, tập trung nâng cao năng lực cho cán bộ, công chức, viên
chức Bộ và tổ chức pháp chế của các Bộ, ngành, địa phương nhằm bảo đảm phát
huy hiệu quả công tác tư pháp trong thời gian tới.
5. Tăng cường
công tác phối hợp với Bộ, cơ quan và cấp ủy, chính quyền các cấp trong chỉ đạo,
điều hành công tác tư pháp từ Trung ương đến địa phương; kịp thời báo cáo, xin
ý kiến chỉ đạo của cấp trên để có giải pháp tháo gỡ những khó khăn, bất cập
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
6. Phát huy hiệu
quả các công cụ quản lý kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và thi đua - khen
thưởng, bảo đảm linh hoạt, kịp thời. Chỉ đạo tổ chức tốt các phong trào thi đua
- khen thưởng bảo đảm gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn
của từng cơ quan, đơn vị./.
Nơi nhận:
-
Ban Bí thư (để báo cáo);
- Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- P.TTgCP Trương Hòa Bình (để báo cáo);
- Ban Nội chính Trung ương;
- Văn phòng Trung ương Đảng;
- Văn phòng Quốc hội;
- Văn Phòng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
- Các Thứ trưởng (để biết);
- Các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, tổ chức pháp chế thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, Cục Thi hành án Bộ Quốc phòng, STP, Cục THADS các
tỉnh, TP trực thuộc TW (để thực hiện);
-
Lưu: VT, VP(TH).
|
BỘ TRƯỞNG
Lê Thành Long
|