Báo cáo 127/BC-UBDT tình hình kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi, kết quả thực hiện chính sách dân tộc năm 2016; nhiệm vụ năm 2017 do Ủy ban Dân tộc ban hành

Số hiệu 127/BC-UBDT
Ngày ban hành 30/09/2016
Ngày có hiệu lực 30/09/2016
Loại văn bản Báo cáo
Cơ quan ban hành Uỷ ban Dân tộc
Người ký Lê Sơn Hải
Lĩnh vực Thương mại,Văn hóa - Xã hội

ỦY BAN DÂN TỘC
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------

Số: 127/BC-UBDT

Hà Nội, ngày 30 tháng 09 năm 2016

 

BÁO CÁO

TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI, KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH DÂN TỘC NĂM 2016; NHIỆM VỤ NĂM 2017

Thực hiện yêu cầu của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội tại văn bản số 68/HĐDT14 ngày 20/9/2016 về chuẩn bị báo cáo tại phiên họp toàn thlần thứ hai, Ủy ban Dân tộc báo cáo như sau:

I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2016.

Trong 9 tháng đầu năm 2016, tình hình sản xuất và đời sống vùng DT&MN gặp nhiều khó khăn, thách thức như thời tiết diễn biến phức tạp, thiên tai xảy ra nhiều, gây thiệt hại lớn về người, tài sản, nhà cửa và hoa màu của người dân, đặc biệt là đồng bào vùng DT&MN1. Rét đậm, rét hại, mưa đá, gió lốc, băng tuyết xảy ra hầu hết các tỉnh thuộc vùng núi phía Bc2 và Tây Nguyên3; hạn hán, thiếu nước sản xuất và sinh hoạt trên diện rộng tại các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên; hạn hán, xâm ngập mặn nghiêm trọng xảy ra ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long4. Trước tình hình đó, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương triển khai các biện pháp cấp bách ứng phó tình trạng thiên tai, hạn hán và xâm nhập mặn, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị, nhờ đó đã hạn chế thấp nhất thiệt hại, n định tình hình sản xuất và đời sống của đồng bào các DTTS.

So với mặt bằng chung toàn quốc, vùng DT&MN vẫn là vùng khó khăn và chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai nhất: Trong khi tỷ lệ hộ nghèo đa chiu bình quân cả nước là 13,15% thì tỷ lệ hộ nghèo khu vực miền núi phía Bắc chiếm 26,99%, vùng DT&MN Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung 20,61%, Tây Nguyên 17,14%. Nhiều tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo rất cao so với bình quân chung cả nước như: Điện Biên 48,14%, Sơn La 47,89%, Hà Giang 43,65%, Cao Bằng 42,39%, Lai Châu 40,4%, Lào Cai 34,3%, Bắc Kạn 29,4%, Kon Tum 26,12%... Thực hiện phương châm của Chính phủ “Không để người dân bị thiếu đói”, ngoài nguồn hỗ trợ gạo của Chính phủ trong thời gian giáp hạt và ảnh hưởng của hạn hán, thiên tai5; các địa phương đã thực hiện kế hoạch “bn tại chỗ” kịp thời hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả của thiên tai, ổn định cuộc sống. Các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương vùng DT&MN quan tâm chỉ đạo, tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tái cơ cấu nông nghiệp, chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi phù hợp, đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, hỗ trợ phát triển sản xuất, tích cực xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, triển khai có hiệu quả các chính sách dân tộc, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội.

Hệ thng trạm y tế và đội ngũ y bác sỹ tiếp tục được quan tâm, từng bước nâng cao năng lực khám chữa bệnh ở tuyến cơ sở. Trước những diễn biến phức tạp của thời tiết, ngành y tế, tăng cường truyền thông về phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm, nhất là dịch sốt xuất huyết. Trên địa bàn các tỉnh vùng Tây Nguyên dịch sốt xuất huyết vẫn diễn biến phức tạp, theo số liệu thống kê chưa đy đủ của các tỉnh Tây Nguyên, đến cui tháng 9 lũy kế số ca mắc bệnh sốt xuất huyết khoảng 16.000 ca (trong đó có 05 trường hợp đã tử vong6). Bên cạnh đó, các chính sách khám, chữa bệnh, cp phát thẻ BHYT cho người nghèo, dân số và kế hoạch hóa gia đình, vệ sinh an toàn thực phẩm và tiêm chủng mở rộng cũng được quan tâm thực hiện. Một số địa phương tiếp tục hưởng ứng chương trình “Vì cuộc sống cộng đồng”, tổ chức khám bệnh, cấp thuốc miễn phí, tặng quà cho người nghèo, vùng sâu, vùng xa, trong đó có đồng bào DTTS.

Các chính sách về giáo dục, đào tạo, chế độ cho giáo viên và học sinh được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng. Các trường vùng DT&MN tích cực tuyên truyền, vận động học sinh duy trì sỹ số, học tập chuyên cần, không bỏ học giữa chừng, triển khai các lớp học tiếng dân tộc trong kỳ nghỉ hè; sửa cha, củng cố, hoàn thiện cơ sở vật chất cho năm học mới. Hệ thống trường phổ thông Dân tộc nội trú tiếp tục được củng cố, phát triển về quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục. Các trường phổ thông DTNT đã hoàn thành việc tuyển sinh vào lớp 10 và tạo mọi điều kiện đhọc sinh tựu trường; tổ chức lễ trao học bổng và quà “Tiếp sức đến trường” cho các em vượt khó học giỏi; đã tiến hành tổng kết, đánh giá năm học 2015-2016 và tập trung triển khai tốt khai giảng năm học mới 2016-2017; thực hiện tốt công tác xét tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2016.

Các địa phương vùng DT&MN đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao mừng Đảng, mừng Xuân, mừng các ngày lễ lớn và các sự kiện trọng đại của đất nước; tổ chức Lễ kỷ niệm 70 năm ngày thành lập cơ quan công tác dân tộc. Các Lễ hội, Tết truyền thống của đồng bào một số dân tộc tiếp tục đưc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa (Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây của đồng bào Khmer Nam Bộ, ngày hội văn hóa, ththao và du lịch quốc gia đồng bào Chăm năm 2016 ...). Công tác thông tin, tuyên truyền được triển khai tốt, đúng định hướng, nội dung thông tin phong phú, có cht lượng tốt.

Tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội vùng DT&MN cơ bản ổn định. Các cấp, ngành, địa phương tăng cường công tác tuyên truyền, vận động đồng bào DTTS thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau; đẩy mạnh việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, góp phần giữ vng an ninh chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Tuy nhiên, tình hình an ninh, trật tự vùng DT&MN vẫn tiềm n nhiu yếu tdiễn biến phức tạp như: Hoạt động đòi ly khai, tự trị tuy đã giảm, nhưng vn xuất hiện tình trạng các cá nhân, tổ chức, hệ phái tôn giáo bên ngoài tăng cường hoạt động, hỗ trợ, bồi dưỡng đào tạo chức sắc, cốt cán, phát triển đạo vào vùng DTTS. Tôn giáo, đặc biệt là Tin lành và một số tổ chức, hiện tượng tôn giáo mới (tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Minh, tà đạo "Hà Mòn"...) tiếp tục phát triển, đe dọa gây mất ổn định về an ninh, trật tự vùng DTTS, nhất là trong dân tộc Mông ở Tây Bắc và người DTTS ở Tây Nguyên. Tại một số địa phương, các thế lực thù địch, phản động lợi dụng sự thiếu hiểu biết của đồng bào các DTTS, xúi giục bà con tụ tập, gây mất an ninh, chính trị trong kỳ bầu cử đại biểu Quc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021. Do làm tốt công tác quản lý, nắm chắc địa bàn nên các địa phương đã chủ động ứng phó, kịp thời phát hiện, ngăn chặn. Tình trạng khai thác lâm sản trái phép, phá rừng làm nương rẫy cùng với nạn cháy rừng xảy ra ở nhiều nơi7 đã ảnh hưởng trực tiếp đến độ che phủ rừng và biến đổi khí hậu. Theo kết quả tng hợp của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổng diện tích rừng khu vực Tây Nguyên năm 2016 đã giảm 180.000 ha so với năm 2010, nguyên nhân chính là nạn phá rừng, lấn chiếm đất rừng để lấy đất canh tác, sản xuất nông nghiệp và trồng cây công nghiệp. Nhằm ổn định và khắc phục tình hình, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành lệnh đóng cửa rừng đối với các tỉnh Tây Nguyên. Tình hình di dân tự do tiếp tục diễn ra từ một số tỉnh miền núi phía Bắc đến các tỉnh Tây Nguyên, sang Lào và di cư nội vùng Tây Bắc, nguyên nhân chủ yếu do thiếu đt sản xuất và theo người thân làm kinh tế8. Theo thống kê trong 06 tháng đầu năm 2016, các tỉnh vùng Tây Bắc có 78 hộ/343 khẩu di cư tự do đi, gây khó khăn không nhỏ cho địa phương nơi di cư đến. Tình trạng đồng bào DTTS, nhất là dân tộc Mông di cư, xuất cảnh trái phép sang bên kia biên giới (Trung Quốc, Lào, Campuchia, Myanma...) có chiu hướng gia tăng. Tình hình buôn bán, vận chuyển ma túy tiếp tục diễn biến phức tạp. Các đối tượng tội phạm ma túy thường lôi kéo đồng bào DTTS vào các hoạt động mua bán, vận chuyển và sử dụng các loại ma túy với thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt và manh động. Để đối phó với lực lượng chức năng, chúng sẵn sàng dùng vũ khí nóng chống trả quyết liệt khi bị phát hiện, bắt giữ. Một số điểm nóng về ma túy thuộc khu vực biên giới như: Các huyện Tương Dương, Quế Phong, Quế Lâm (Nghệ An), Mai Châu (Hòa Bình), Điện Biên (Điện Biên), Mộc Châu (Sơn La)...Theo số liệu của Bộ Công an, tội phạm ma túy chiếm 34% tội phạm cả nước, trong đó tội phạm là người DTTS chiếm 20%. Tình trạng tranh chp, khiếu kiện đất đai (vụ khiếu kiện kéo dài tiếp tục xảy ra tại tỉnh Lâm Đồng và Đắk Lắk9), tái trồng cây thuốc phiện10, nghiện hút, sử dụng ma túy, nhiễm HIV, nạn tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống, buôn bán hàng giả, hàng cấm, lừa gạt, buôn bán phụ nữ và trẻ em...vẫn tiếp tục din biến phức tạp.

II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 2016.

Ủy ban Dân tộc được giao chủ trì quản lý, hướng dẫn thực hiện 13 chính sách, kết quả ước thực hiện năm 2016 như sau (Có phụ lục kèm theo).

1. Chương trình 135

Năm 2016, Chương trình 135 được triển khai trên địa bàn 2.275 xã, và 3.424 thôn (trong đó NSTW đầu tư 2.240 xã, 3.373 thôn; ngân sách địa phương 35 xã, 51 thôn), được thực hiện với 3 nội dung: Htrợ phát triển sản xuất, nâng cao năng lực và hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng cho các đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó khăn.

Thực hiện nguyên tắc phân bổ vốn năm 2016, ngân sách Trung ương hỗ trợ đầu tư cho 2.240 xã và 2.821 thôn, bản. Định mức: Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng: 1.000 triệu đồng/xã/năm, 200 triệu đồng/thôn/năm; hỗ trợ phát triển sản xuất: 300 triệu đồng/xã/năm, 50 triệu đồng/thôn/năm; đào tạo nâng cao năng lực cộng đồng và cán bộ cơ sở 60 triệu/xã/năm, 15 triệu/thôn/năm; duy tu bảo dưỡng bng 6,3% vốn đầu tư cơ sở hạ tầng (theo Quyết định 101/2009/QĐ-TTg ngày 05/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ).

Tổng nhu cầu kinh phí thực hiện năm 2016 là 3.970,628 tỷ đồng; Trung ương đã phân bổ cho các địa phương 3.493,809 tỷ đng;

Kết quả thực hiện các dự án thành phần (theo báo cáo chưa đầy đủ của các địa phương):

Dự án hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng: Kinh phí được phân bổ là 2.582,28 tỷ đồng, đã đầu tư thực hiện 3.999 công trình (gồm 1.809 công trình chuyển tiếp và 2.180 công trình khởi công mới: giao thông, thủy lợi, nhà sinh hoạt cộng đồng, công trình y tế, nước sinh hoạt, công trình điện, chợ...). Kết quả giải ngân đạt trên 50% ưu tiên vào thanh toán trả nợ công trình đã hoàn thành năm 2015 được bàn giao đưa vào sử dụng, về duy tu bảo dưỡng các công trình hạ tầng sau đầu tư: Nguồn vốn sự nghiệp được cấp 162,684 tỷ đồng, đã triển khai duy tu bảo dưỡng cho 510 công trình (nước sinh hoạt, trường lớp học, đường giao thông, thủy lợi kênh mương), chủ yếu do các xã làm chủ đầu tư và tổ nhóm cộng đồng thôn bản thực hiện.

Dự án hỗ trợ phát triển sản xuất: Nguồn vốn sự nghiệp phân b748,845 tỷ đồng, tất cả các dự án hỗ trợ sản xuất đều do xã làm chủ đầu tư. Các tỉnh đã triển khai hỗ trợ giống cây, giống con, phân bón, vật tư và một số mô hình phát triển sản xuất cho hơn 147.000 hộ. Nhìn chung tiến độ triển khai thực hiện dự án hỗ trợ phát triển sản xuất chậm, tỷ lệ giải ngân thấp mới đạt khoảng gần 40% .

Dự án nâng cao năng lực cho cộng đồng và cán bộ cơ sở (do cơ quan làm công tác dân tộc cấp tỉnh triển khai): Đến nay có một số tỉnh như Bắc Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Kiên Giang, Hà Giang... đã tổ chức một số lớp đào tạo tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ cấp xã và các nhóm cộng đồng. Còn lại một số tỉnh đang xây dựng nội dung, kế hoạch đào tạo tập huấn triển khai thực hiện vào quý IV năm 2016.

Khó khăn, vướng mắc trong triển khai thực hiện: Quyết định phê duyệt Chương trình đến tháng 9/2016 mới được ban hành. Các văn bản hướng dẫn về cơ chế quản lý điều hành CTMTQG, cơ chế tài chính chậm được ban hành. Nguồn lực cho địa phương mới được phân b90%. Đến nay, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính mới có thông báo bổ sung phân bổ 10% vốn còn thiếu. Việc triển khai hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng còn chậm do phải thực hiện quy trình thẩm định các công trình khởi công mới theo Nghị định 136/NĐ-CP. Cơ chế đặc thù rút gọn đối với các công trình quy mô nhỏ, kỹ thuật đơn giản chưa được ban hành. Thi công các công trình tại các địa phương thực hiện vào mùa mưa, lũ dẫn đến tiến độ chậm so với kế hoạch. Một số địa phương còn lúng túng trong triển khai hoạt động hỗ trợ phát triển sản xuất do Chương trình chậm được phê duyệt và chưa có hướng dẫn chi tiết của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.

2. Chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2013 - 2015 (Quyết định 755/QĐ-TTg ngày 20/5/2013):

Tổng số vốn cấp bổ sung từ nguồn tăng thu tiết kiệm chi ngân sách trung ương năm 2014 để thực hiện năm 2016 là 1350 tỷ đồng. Do đến tháng 01/2016 các địa phương mới nhận được quyết định giao vốn nên hầu hết đều phân bổ và triển khai chậm. Ước thực hiện năm 2016 đạt 1.200 tỷ đồng, bằng 89% kế hoạch.

Một số khó khăn hạn chế: Vốn bố trí từ ngân sách TW chưa kịp thời, chưa đng bộ giữa nguồn vốn hỗ trợ và vốn vay; vốn cấp thực hiện chính sách hàng năm quá thấp so với nhu cầu và kế hoạch thực hiện chính sách. Việc lồng ghép ngun vốn của Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường, học nghtạo việc làm,… để thực hiện chính sách chưa thực hiện được như quy định. Một số tỉnh không còn quỹ đất để thực hiện hỗ trợ đất sản xuất cho đồng bào DTTS, một số tỉnh khác tuy quỹ đất vẫn còn nhưng chất lượng đất xấu, xa dân cư. Chủ trương thu hồi đất nông lâm trường không đạt nhiều kết quả. Việc đào tạo nghề phù hợp với vùng DT&MN rất khó khăn. Một số địa phương chưa tích cực triển khai thực hiện chính sách, rà soát xác định đối tượng thụ hưởng, ban hành mức bình quân đất sản xuất, việc xây dựng đề án, phê duyệt đề án thực hiện chính sách còn chậm. Ở một số địa phương sau khi công trình hoàn thành (nước sinh hoạt tập trung), công tác quản lý sử dụng chưa tốt nên bị hư hỏng, xuống cấp. Định mức hỗ trợ theo Quyết định 755/QĐ-TTg không còn phù hợp, cần được điều chỉnh để tiếp tục thực hiện trong thời gian tới.

3. Chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở và giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2013 - 2015 (Quyết định số 29/2013/QĐ-TTg):

Năm 2016 tiếp tục triển khai thực hiện từ vốn chuyển nguồn từ Quyết định 74/2008/QĐ-TTg chuyển sang là 352,55 tỷ đồng, vốn được cấp từ nguồn ngân sách vượt thu của năm 2014 là 290 tỷ đồng. Như vậy, tính đến nay ngân sách TW đã cấp 100% vốn để thực hiện Quyết định 29/2013/QĐ-TTg. Ước thực hiện năm 2016 giải ngân thanh toán đạt 200 tỷ đồng, chủ yếu là thực hiện hỗ trợ đất ở và cho vay vốn để chuộc đất sản xuất.

Quá trình thực hiện còn vướng mắc chủ yếu do vốn vay được cấp chậm, không đồng bộ với vốn hỗ trợ; số vốn chuyển từ Quyết định 74/2008/QĐ-TTg sang thực hiện Quyết định 29/2013/QĐ-TTg ở các tỉnh gặp khó khăn do chưa quyết toán, số vốn còn dư ở các tỉnh không phù hợp với nhu cầu song rất khó điu chỉnh.

4. Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số đến năm 2015 (Quyết định số 33/2013/QĐ-TTg):

[...]