Bí thư Đảng ủy Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh giai đoạn 1975 1979 là ai?

Bí thư Đảng ủy Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh giai đoạn 1975 1979 là ai? Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ mà Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức là gì?

Nội dung chính

    Bí thư Đảng ủy Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh giai đoạn 1975 1979 là ai?

    Bí thư Đảng ủy Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 1975 1979 là đồng chí Phạm Văn Quỳnh. Đây là giai đoạn đặc biệt quan trọng trong lịch sử của nhà trường, khi đất nước vừa thống nhất và bước vào công cuộc khôi phục, phát triển giáo dục đại học trong bối cảnh mới. Bí thư Đảng ủy Trường Đại học Nông Lâm lúc bấy giờ có vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo, định hướng phát triển nhà trường theo đường lối của Đảng và Nhà nước.

    Dưới sự lãnh đạo của Bí thư Đảng ủy Trường Đại học Nông Lâm, trường đã từng bước ổn định tổ chức, kiện toàn bộ máy giảng dạy, nâng cao chất lượng đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn trong thời kỳ đầu sau giải phóng. Đồng chí Phạm Văn Quỳnh cùng với Ban Đảng ủy đã có nhiều đóng góp trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên, mở rộng các ngành đào tạo phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp.

    Bên cạnh đó, đồng chí còn phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý giáo dục để thúc đẩy nghiên cứu khoa học, ứng dụng kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến vào sản xuất. Những đóng góp của Bí thư Đảng ủy Trường Đại học Nông Lâm trong giai đoạn này đã đặt nền tảng quan trọng để nhà trường tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong những năm sau đó.

    Bí thư Đảng ủy Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh giai đoạn 1975 1979 là ai?

    Bí thư Đảng ủy Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh giai đoạn 1975 1979 là ai? (Hình từ Internet)

    Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ mà Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức là gì?

    Căn cứ theo quy định tại Điều 9 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011 về Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:

    - Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.

    - Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).

    - Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.

    - Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.

    - Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.

    - Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.

    Chuyên viên pháp lý Nguyễn Mai Bảo Ngọc
    saved-content
    unsaved-content
    32